Thứ Ba, 9 tháng 12, 2014

Bài Viết Tham Khảo





Xưa nay người ta hay luận đoán theo cách miếu vượng địa của các sao mà quên mất tính chất của chúng. Mệnh " Cơ Nguyệt Đồng Lương" hội toàn cát tinh và không có hung tinh độc tọa thì chớ luận lầm là phú quý cát thọ đủ cả, mệnh vậy mà nhiều người chỉ được mỗi cái việc làm công chức nhà nước bình ổn, sống cuộc sống thanh nhàn nhưng khó mong có danh phận, cao hơn thì làm quan lại nhỏ nếu có Khoa hoặc Quyền. Chính tinh là quan trọng để nhận biết bạn là thành phần nào trong xã hội, Tử Vi, Phá Quân, Cự Môn đều là người lãnh đạo, thêm Khôi Việt thì cao hơn, thêm Thái Tuế thì cao hơn nữa, Quốc Ấn cũng vậy. Hung Cát tinh cũng tùy thuộc vào từng sao, Cơ Nguyệt Đồng Lương thành cách tốt thì an nhàn nhưng khó lên cao, Tử Phủ Vũ Tướng dễ phá cách nhưng luôn làm người có nhiều thành tựu. Xét lại lá số kia của bạn nếu không vấp phải hạn quá xấu như vậy thì tuy lúc đầu không có gì nhưng sau này lên nhanh, phản vi cách, . Xét tiền nhân luận " Không Kiếp là tối hung thần" là khi chính tinh chuyển ở vị trí bị động. Nếu Không Kiếp là tối hung thần thì những người sinh tháng Tư, tháng Mười đâu có ai làm lãnh đạo, đâu có ai được thành công. 



Mệnh bạn tuy Tử Vi bị ngộ cả Tuần Triệt, bộ Tử Phủ Vũ Tướng đến đây bị phá cách bởi hai Không Vong này. Vua làm bù nhìn có từng cấp độ, cấp độ xấu nhất là không có quyền hạn gì, bù nhìn hoàn toàn, xong việc không còn giá trị thì chết. Cao hơn là tay sai cho bọn chúng, nhưng ít ra Tử Vi vẫn còn một chút quyền lực. Mức độ thứ ba là kẻ bị Trời sai khiến, hành theo mệnh trời, chẳng qua chúng ta có cuộc sống này chỉ theo sự sắp đặt. Tử vi khi xưa thường đi cùng tướng số, có người quân tử, cũng có kẻ hèn mạt cùng một lá số. Xem tử vi nếu không biết cái động trong đó thì chỉ biết cái rễ, thân lá phát triển ra sao lại phải nhờ vào xã hội và môi trường. Mệnh may còn một sao Quốc Ấn để an ủi cho mình, đủ để làm thay đổi cho dù không phải quá lớn so với bối cảnh ấy, Quốc Ấn khi đi với Tuần tăng thêm sức mạnh của sao này, nếu chỉ có Tuần thì luận cũng tốt đấy, chủ là người vừa tài vừa giỏi, " Song Lộc Lã Hậu Chuyên Quyền", nhưng như thế thêm con Triệt ở tam hợp thì ta phải luận theo nó. Một con Triệt khiến Tử Vi luôn gặp những nghịch cảnh khiến khó có thành tựu, nó cũng khiến Tử Vi mất cả quyền lực, Tử Vi phải xa cái bản quán để đi sang nước ngoài lập nghiệp, Lộc Mã giúp Tử Vi vực dậy trong khó khăn, đi xa ắt sinh lợi, cũng may là cái bạn từ bỏ ấy đang còn tốt chán vì đang còn Tả Hữu Khoa giúp đỡ, chỉ là rời bỏ tổ quốc sang vùng trời mới, nếu không thì không biết Tử Vi bị khủng hoảng đến mức độ nào, bên trái vua Tử Vi có thêm anh Tang Môn, bên phải có thêm anh Thiên Hư tạo thành thế 3 chân kẹp Tử Vi rất vững chắc, Tử Vi đã vô lực rồi lại gặp thêm các sao kỵ gặp, vậy chúng ta phải mong chờ vào anh Thất Sát. Đặc trưng của tinh hệ Tử Sát rất rõ ràng là ép buộc bằng hành vi ( Quyền Lực ) hoặc bị ép buộc, với một loạt bàng tinh kỵ gặp ở tam hợp giao với trợ tinh lực điều hòa khá mạnh thì ta có thể luận đoán là tuy bị ép buộc nhưng cũng gây được áp lực với người khác. " Lộc Mã tối hỉ giao trì", chỉ riêng nó thôi cũng tạo ra một cách cục lớn, chỉ hai sao thôi nhưng sức mạnh của nó ngang ngửa với chính tinh hợp cách, bằng chứng là khi nó gặp Không Kiếp hình thành cách " Lộc Đảo Mã Đảo" rất nguy hiểm tính mạng. Tính chất của Tử Vi là hành động vì thế nên gặp Tuần Triệt tính động bị chiết giảm, Mã lâm vào thế Tuyệt lại càng làm bế tắc thêm . Vì vậy, có thể gọi là Cát Hung Tương Bán. Thất Sát ở vị trí này vẫn là chủ mất, tất nhiên vẫn còn một chút được, kỵ hạn thêm Kỵ Hình dễ mất hoàn toàn, mất những thứ lớn. Với Tử Sát bị triệt quyền như vậy thì bạn đạt được quyền lực nó cũng chỉ là hư quyền, không thích hợp trong ngành quan lộc. Bạn không nên tham gia gánh vác, và cũng không nên tự mình sáng lập, lãnh đạo, nếu có muốn mở công ty thì hãy nhờ người khác đứng tên và ở trong bóng tối hành động thì bạn sẽ tránh được nhiều rủi ro cho mình và cũng hợp cách hóa giải được Tang Môn.


Nói chung mệnh như vậy cũng không có gì xấu, chỉ là không có mấy danh phận, nếu nổi danh thì lại liên quan đến tuổi thọ, chứ vấn đề khác thì không nguy hiểm, tai họa cũng ít. Bạn nên tìm hiểu một chút về Đạo Phật, nhất là một số kinh điển Phật Giáo Đại Thừa, kinh nghiệm cho thấy thì trong Phật Giáo có dạy về Tính Không, cái Không đó lại nằm ngay ở Mệnh của bạn, và hãy để Sát Phá Tham làm đúng việc của nó là tìm hiểu và khám phá, khám phá cái tận cùng bí mật ( Tử Vi ) của con người, bạn sẽ nhận thức và định đoạt được số mệnh của mình ( Tử Vi ), tốt đẹp nhất là bạn có thể đạt đến chữ Không bất diệt, bất tử, có thể bộ Song Lộc Khoa Mã của bạn đang phát huy năng lực cứu giải cho bạn lúc này. Tôi tin bạn sẽ có hứng thú với việc đó. Sở dĩ Tử Vi là đế tinh vì tính ẩn tàng những bí mật trong tính chất của nó. Hồi xưa Tử Vi phải đi liền với Tướng Số, mà " Hữu Tâm Vô Tướng, Tướng Tùy Tâm Sinh", mỗi một hành động, suy nghĩ ( ứng sao Tử Vi ) đều là do tâm khởi mà ra, biết Tử Vi là để sửa cái tâm của mình, vì thế nên tiền nhân nói " Mọi thứ do tâm tạo", hạn đến Song Lộc thì khí vượng tràn đầy, diện mạo sáng sủa, ấn đường vàng sáng. Vì bạn cũng có quan tâm đến Tử Vi nên tôi không luận sâu vào những cái tính chất đơn giản bạn đã biết. Một gợi ý nhỏ trên con đường học Tử Vi của bạn " Hóa Lộc và Lộc Tồn thực ra không phải ý nghĩa chính của nó là tiền bạc, mà tính chất quan trọng nhất của nó là thuận lợi, phát triển và là khởi nguyên của sự việc, tính chất quan trọng của Hóa Kỵ là thu mình, bế tắc." và tất cả các sao nếu biến hóa cực đoan thì đều chuyển biến theo hai hướng này.


Sang đến phần luận Hạn của bạn, Tử Vi tọa mệnh tối kỵ đến hạn Tam Không, gia thêm ác sát tinh thì càng nguy hiểm và bạn đang ở trong tình thế đó. Một Bạch Hổ kỵ Thất Sát hơn hết, vì Thất Sát chủ mất và Bạch Hổ là chiếc khăn tang. Bạn lại gặp thêm cách Thái Tuế Không Kiếp, nếu có Đào Hồng hoặc Khôi Việt ở đây thì bạn khó có cơ hội nói chuyện ở đây. Một cung Mệnh di đến đây xấu, nhưng xét ở một chút về hạn, Thiên Phủ ngộ Nhị Không buộc phải nói là tôi chết mà không lên được tiếng, nhưng ở đâu ra một anh Thanh Long ở đây, một Thanh Long nhưng là cứu tinh cho cả bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm ngộ Tam Không, sức mạnh của sao này không phải là tầm thường vì mình nó không cần trợ lực cũng đủ làm nên một cách đẹp " Thanh Long Thìn Thổ Âm Nam, gia ngộ Kỵ Tinh công danh toại mãn", vì Thanh Long chủ tiếng nói, chủ danh tiếng và khi bạn còn tiếng nói là điều minh chứng rõ ràng nhất việc bạn còn sống. Một Phượng Các chuyển thành bị thờ phượng trên bàn thờ, và bây giờ bạn nên nghe lời tôi, hãy tìm lấy một tôn giáo cho bạn, và cách đó mới có đất dụng cho bộ Tam Không, hãy thờ phượng những bậc thánh nhân, nghiên cứu kinh sách của họ. Cũng là cách đó nên đa số cuộc đời những nhà sư đều không phải chịu những khổ cực của thế gian. Một Thiên Tướng không sợ Không Kiếp nên bạn dễ thở hơn với hạn này. Nhưng năm có Đào Hoa hoặc Lưu Đào Hoa nhập về cường cung của bạn đều luận là xấu, đại hạn này các tiểu hạn đều không hợp cách, nên chờ đợi thời cơ để bắt đầu vào hạn sau, tuy hạn sau cũng không mấy tốt nhưng còn hơn hạn này, hạn  sau của bạn có ý nghĩa là KHỞI LÊN, DÂNG LÊN.



Cự Nhật có Hình Việt, thêm bộ Dương Linh tạo thành các Linh Hình Việt Hao ngộ Sát Phá. Rất cần một Hóa Quyền để biến cái điên loạn của Sát Phá ngộ bầy đàn của nó thành sức mạnh, uy quyền nhưng Quyền Lộc nó lại ở cung huynh đệ. Trong hạn này cũng hình thành thêm cách Linh Xương La, thêm chàng Vũ Khúc vào thì có thể luận là " Do tức giận mà làm việc dẫn đến hậu quả là tự sát", bên nhị hợp có anh Phục Binh và Thiên Khốc chờ đợi để khóc than, làm ma chay cho bạn, nhưng số bạn đâu có chết dễ thế, tuy là cũng lao đao ở hạn này. Bạn phải quan tâm đến sức khỏe từ đây, tránh đi lại khi trời dông sét, đừng bao giờ xích mích với ai vì hình tượng của hạn này là người rời xa trần thế do hung khí sát hại, cẩn thận với mọi quan hệ thế sự, tiền bạc trong hạn này rất có thể đạt đến mức hoạch phát khi tiểu hạn đến cung Huynh Đệ và bạn sẽ lãnh được ngay hậu quả khi tiền vào túi bạn, sẽ có khả năng cao vi phạm pháp luật do ham muốn kiếm tiền, cũng đừng buôn bán ma túy hay cờ bạc,... mà gây họa sát thân, cứ ngồi ở nhà mà tận hưởng cuộc sống và tránh việc tạo họa cho mình. Hạn sau là hạn lên đời của bạn, hạn này được đánh giá là hoàn toàn tốt, không có gì phải nghi ngại.

Phá Quân Thìn Tuất Cách





Phá Quân là một trong những Chính Tinh thường được luận với cái tên là Hung Tinh, cái tên như Cự Môn, Thất Sát, Phá Quân thường được xếp vào loại xấu vì cái tên không mấy thiện cảm, đó cũng chính là tính chất chính của các sao này. Tuy vậy, nhưng một khi đã thành cách thì nội lực rất lớn, đôi khi không cần cát tinh củng chiếu, chỉ một Hóa Quyền hoặc Hỏa Tinh đã đủ dùng, chỉ quan trọng các bộ sao làm tăng giá trị cho các tổ hợp và hợp cách. Phá Quân là chủ tướng của bộ sao Sát Phá Tham, là người chỉ huy đầu quyết định thành bại của nhóm sao này, còn thực hiện việc lớn đến mức nào là của các bộ sao chủ quan trọng. Đây thuộc tinh hệ Tử Tướng Thìn Tuất, với tổ hợp Sát Phá Tham độc lập, tính thống nhất cao. Phá Quân Thìn Tuất không đẹp bằng cách cư Tý Ngọ vì khi ở Tý Ngọ thì Tham Vũ Thìn Tuất cách được thành lập, Thất Sát nhập miếu địa, cả ba sao đều ở nơi đắc vị, Phá Quân chỉ phải đối mặt với Liêm Tướng, ở đây thì Thất Sát cư Ngọ tốt có đối cung Vũ Phủ dễ cướp đoạt được tiền của nhưng Phá Quân bị đế tinh Tử Tướng khó nhọc vì Tử Tướng là thế quân tử nên Phá Quân ở đây bị gọi là " Trai bất nhân Phá Quân Thìn Tuất", tuy nhiên đa số còn võ đoán, nếu được Khoa Quyền mà phía Tử Vi bị sát tinh xâm phạm thì không luận như vậy.


Phá Quân và Cự Môn là hai sao cầm đầu nhóm Cự Cơ Đồng và Sát Phá Tham, cả hai đều kị gặp Lộc Tồn ở tam hợp và gây ra những xung đột nhất định, tùy theo hung tinh định đoạt. Ngược lại, Tử Vi rất thích gặp Lộc Tồn nên trường hợp này không có sự giao thoa giữa Sát Phá Tham và Tử Phủ Vũ Tướng Liêm nên kỵ gặp Lộc Tồn ở đây, ngay ở vị trí Lộc xung tức mệnh có Phi Liêm cũng không mấy tốt đẹp. Sát Phá Tham ngại Đào Hoa củng chiếu hoặc đồng độ, chủ suốt ngày ăn chơi trác táng, nếu mệnh lại có Dâm Tinh thì tính chất càng trở nên xấu hơn vì Phá Quân còn có nghĩa là phá tán. Mệnh Phá Quân đa số đều có một cung điền trạch đẹp vì có Âm Dương, kém nhất thì cũng được phần điền sản hơn người. Phá Quân có tính chất phá tán giống Song Hao, hỉ được Hóa Lộc, càng phá càng ra tiền của, giống như cách cục Cự Cơ Song Hao, chủ đầu tư dứt khoát, mạnh mẽ mà giành được lợi lộc. Một Phá Quân cần Hóa Quyền để không thành kẻ bị bắt, cũng như vậy cần Hóa Khoa để phá đúng chỗ, phá một cách khoa học nếu không dễ chết. Mệnh Phá Quân không nên gặp hạn Bạch Hổ thành cách Thất Sát Bạch Hổ hình tượng xương trắng dễ tai ương. Ngộ Đào Hoa thì chủ ăn chơi tối ngay không biết chán mà hỏng đi công danh sự nghiệp.


Hồi trước ta thường nghe những việc kỳ dị như đa số các nhà khoa học đều có Sát Phá Tham, thật ra người xem tử vi cũng rất dễ có sao này khi đi với một số sao nữa, Sát Phá Tham là khám phá, và các giải thường tôn vinh những người có khám phá tốt đẹp như Vi Khuẩn, Toán Học,.. các môn khoa học khác đều rất đáng coi trọng. Đừng bao giờ nhầm Xương Khúc là khoa học ngày nay, những sự chuyên sâu ấy đa phần là do Sát Phá Tham ngộ Không Kiếp. Xem tử vi là phải biết kiểm nghiệm, ta phải nên chủ động lấy ngày tháng năm sinh của các nhà toán học, vật lý,... sinh tháng tư, tháng mười rất nhiều. Như thế, lộ ra một bí mật khác do ta khám phá ( SPT ) là Xương Khúc thực ra chỉ hợp với chế độ Nho Giáo, lấy nền tảng đạo đức lên hàng đầu thì sẽ luận đúng, Hóa Khoa cũng vây, nó chỉ là cái bằng cấp do Hóa Khí của một số sao ra. Đừng quan niệm giỏi hay dốt bằng những bộ sao được mệnh danh là cát tinh như vây, sai lầm rất dễ xảy ra. 


Phá Quân Thìn Tuất rất hỉ hạn Không Kiếp, tức là nếu mệnh không có thì cũng chủ đạt được sự hoạch phát về công danh tài lộc do tìm kiếm, khám phá mà ra. Miễn là đừng Không Kiếp đi với Hình Kỵ hoặc thêm nhiều ác sát tinh khác, bộ sao này tối kỵ bộ Kỵ Hình, gặp vào dễ chết vì Kỵ Hình là vi phạm, càng khám phá càng vi phạm, càng táy máy càng bị cấm đoán thì không chết mới lạ. Tham Lang Hóa Lộc ở can Mậu khiến tổ hợp này gia tăng tính tốt đẹp vì một Tham Lang ham muốn rất quan trọng, Tham Lang Hóa Kỵ rất không nên, hạn đến Thiên Hình là mang vạ ngay vào thân vì thế không nên sinh ở giờ Sửu và một số giờ khác có tam hợp Thiên Hình.




Thứ Ba, 2 tháng 12, 2014

Thiên Lương Tỵ Hợi Cách




Sao Thiên Lương là một trong những sao có tính chất tốt đẹp nhất trong Tử Vi, chủ thanh quý, tao nhã, cũng chủ về tuổi thọ, là cát tinh có lực cứu giải lớn, đóng ở Tật Ách và Thiên Di tác dụng hiển hiện, ở mệnh đi với cát tinh sống an vui tĩnh tại. Tính chất chủ " Ấm", tức là che chở, " Lương xung tọa thủ kiêm thọ ấm". Ở cung Thiên Di nếu có cát tinh hội họp lại là cách hoạch phát Kinh Thương, Thiên Lương như một số sách cho rằng có tính khắc kỵ là không hiểu rõ bản chất của sao này, với đặc tính ban phát nên tính bày tỏ, hợp với cả bộ Tuế Hổ Phù, nhưng ngại đồng cung với Bạch Hổ. Thiên Lương kỵ gặp bộ Không Kiếp, gặp Hỏa Linh người xem tử vi đều quan niệm là tối kỵ nhưng không phải như vậy, Thiên Lương chủ lương thực và cũng chủ kinh doanh, gặp Hỏa Linh nếu có Hóa Lộc mà không gặp thêm phá cách như Việt Hình,... đều hợp cách mở nhà hàng, đây cũng là tính chất phục vụ cộng đồng của sao này, chỉ khác là có thể sinh lời cho bản thân. Mỗi sao đều có điểm cực đoan của chúng, Thiên Lương cũng không ngoại trừ, đỉnh điểm của Thiên Lương là bất lương, và việc chủ thọ bây giờ sẽ chuyển thành chủ không thọ, tác động tốt xấu chủ yếu do hạn gia giảm. Vì vậy, người Thiên Lương khi thấy tâm tính của bản thân họ chuyển biến theo hướng xấu thì nên cẩn thận với những họa ách không thể chống đỡ nổi. Thiên Lương đóng cung Phụ Mẫu gia cát cũng chủ phụ mẫu ôn hòa, sống thọ với con cái, vì bản thân Thiên Lương là Ấm Tinh. Thiên Lương luôn tam hợp có Thái Âm, hỉ gặp Thái Dương ở những nơi Âm Dương sáng, tạo thành cách Âm Dương Lương chủ ngày tháng may mắn, đẹp hơn cách Đồng Âm cư Tý thuộc bộ hoàn chỉnh Cơ Nguyệt Đồng Lương. Vì thế, chủ chốt của Cơ Nguyệt Đồng Lương chính là Thiên Lương.



Thiên Lương là ngôi sao may mắn, không những vậy nó còn có nghĩa là tài năng, nghĩa hiện vật là tiền bạc, vì thế nó không thích Triệt đồng cung, kỵ nhất là gặp Tang Môn đồng cung rất bất lợi, trừ trường hợp Dương Lương có Tang Môn đồng cung thì Âm Dương hỉ gặp sao này, nếu không chủ bị ngã từ trên cao vì có thêm Điếu Khách. Xét ở vị trí Tỵ Hợi, Thiên Lương được bộ Âm Dương Sửu Mùi hội họp thành cách Âm Dương Lương, cách này có kém hơn cách Dương Lương Mão Dậu nổi tiếng với tên Nhật Xuất Lôi Môn ( Mặt trời ló trước cổng sấm ). Nhật Nguyệt ở nơi này cần gặp thêm Tuần Không để thu hút, Dương Lương có bộ Âm Dương ở Sửu thích hợp cho nam hơn nữ, cũng được tạm gọi là nơi đắc ý cho Thái Dương vì báo hiệu một ngày mới an lành. Mệnh Thiên Lương Tỵ Hợi ưa gặp Khôi Việt, chủ người quan trọng, cũng chủ phát may " Ấm tinh phùng Khôi tinh ư hợi địa ứng chi nhạc sơn thần", chủ người có dung mạo uy nghi, đẹp đẽ như sơn thần, ở Tỵ Hợi đều luận như vậy. Âm Dương Lương Sửu Mùi cần gặp Xương Khúc, tạo thành cách " Dương Lương Xương Khúc" và " Âm Dương nhi xương khúc đắc lực", cảnh người may mắn suốt ngày ca hát luôn tạo cho chúng ta cảm giác yên bình. Cũng một ngôi sao chủ yên bình, ta lại có Thiên Lương thích hợp với Thanh Long chủ tiếng nói của quý nhân. Thiên Lương chủ thụ hưởng gia trạch của cha mẹ để lại cũng đã đủ no ấm, vì thế có thêm Lộc Tồn ở bản cung hoặc tam hợp để cái gia sản ấy thêm to lớn, ở Tài cung có cả bộ Cự Cơ bên ngoài chủ thời cơ, càng thích hợp cho việc kinh doanh.



Thiên Lương cần đi với Thiên Đồng thành bộ Đồng Lương thì mới hay, khi đó dễ đủ cả cách cục Cơ Nguyệt Đồng Lương hiền hòa, phúc hậu. Thiên Lương không ngại Bệnh Phù, ngược lại rất hỉ gặp, khi có Lộc Tồn khi cách cục Âm Dương Lương trở nên đẹp hơn rất nhiều, Dương Lộc, Âm Lộc, Lương Lộc đều hợp cách, thêm Văn Xương thành cách Dương Lương Xương Lộc chủ thi đỗ, chủ người đàn ông đắc ý, được may mắn ở vị trí cao, được hưởng lộc. Lộc Tồn khi đó được thêm Quốc Ấn chủ quan trọng đến cả nước, nếu không có Lộc Tồn thì Hóa Lộc cũng đẹp, giải được Hỏa Tinh hoặc Linh Tinh đơn thủ. Thiên Lương ngại Kiếp Sát, khi có cả Hao Sát Tỵ cung thì dễ mắc đao nghiệp hình thương. Tứ Linh là cần thiết và gia tăng vẻ tôn quý của ngôi sao này, chủ được kính trọng, ngưỡng mộ, có thêm Tả Hữu thì có quan chức cao. Thiên Lương không ngại Hóa Kỵ ngược lại còn rất ưa khi có cát tinh củng chiếu chủ tài lạ, may mắn lạ thường,...nhưng kỵ gia thêm sát tinh chủ về hình khắc cô độc, cái may mắn ấy giờ chuyển thành không may, may nhưng gặp bao nhiêu khổ cực. Hạn đến Thiên Lương tốt đa phần ai cũng có cái may, tùy vào mức độ và các sao chủ quan trọng, các sao chủ phát sinh, một Thiên Lương tốt là đi với chữ Thọ, được bộ Cáo Phụ hoặc Thai Tọa ở đây đều tốt. Đi với Song Lộc luận rất tốt, đắc vòng Trường Sinh gia tăng cát lực. Tuy nhiên, Thiên Lương không thể chịu được Không Kiếp, Gặp mình Địa Kiếp đỡ hơn Thiên Không, đương nhiên gặp cả 2 là xấu, tuy nhiên cũng có một số trường hợp Không Kiếp trở nên hợp cách và trở nên tốt vì ở đây còn có bộ Âm Dương, nhất là khi Không Kiếp ở Tỵ Hợi là nơi miếu địa của sao này, là nơi Không Kiếp được nhiều hơn mất.

Chủ Nhật, 19 tháng 10, 2014

Tử Sát Tỵ Hợi Cách




Thuộc tinh hệ Tử Vi chủ tinh nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm giao hội với Sát Phá Tham, được nhận định là một trong những cách cục hay nhất khi có sự giao hội giữa hai nhóm sao lớn này. Tử vi nằm tách biệt với Sát Phá Tham thì tốt đẹp hơn khi đồng cung với nó, vì vừa phải tránh sao kỵ Thất Sát, vừa phải tránh Không Vong và các bàng tinh kỵ cho Tử Vi nên khó thành đại cách, nhưng một khi đã xác lập thì uy lực không thể xem thường. Tam phương có Vũ Tham cư Tài Bạch và Liêm Phá cư Quan Lộc, đây là bố cục khá tốt đẹp về cả hai mặt, cái không hay là bộ TPVT cần Lộc Tồn để thể hiện tính trường tồn của người lãnh đạo, nhưng Phá Quân lại không thích như vậy, gặp Lộc Tồn thì họa đến ngay, trừ khi có Song Lộc được gọi là tốt, lại một lý do nữa để khiến cách cục này kém hơn so với Tử Phủ Dần Thân và Tử Vi Tý Ngọ. Bản thân Sát Phá Tham có phách lực rất lớn, thích sát tinh làm điểm nhấn, điểm mấu chốt của Tử Sát Tỵ Hợi không phải là trợ tinh nhiều và hùng hậu mà chỉ cần một trong hai sao Hỏa Tinh và Linh Tinh là đủ dùng, chủ có những thành tựu lớn nếu không gặp thêm phá cách khác. Nhưng một Đế Tinh muốn trở thành người đứng đầu phải có Tả Hữu hỗ trợ, bộ sao đắc lực nhất cho TPVT, thêm một vài sao trong tam hóa và tránh xa bằng được Tam Không ( Chủ vong mạng  ), Kỵ Hình ( bị cướp đoạt tính mạng ), Bạch Hổ ( Tai ương ), Không Kiếp.




Do có bộ sao Vũ Tham làm điểm nhấn, chủ người đàn ông trung niên có tài,  gặp Xương Khúc để hình thành bộ  "Nhị KHÚC triều viên phùng TẢ HỮU tướng tướng chi tài”. Vũ Tham cư đúng Tài Bạch nếu không gặp Phi Liêm, Bạch Hổ hoặc Không Kiếp có thể luận là người có tiền của, làm ăn luồn lách giỏi mà kiếm được tiền, cũng chủ trung niên mới thành đạt lớn. Tử Vi Thất Sát có Thiên Phủ bên ngoài nên tính thống nhất chưa đủ, thiếu sức mạnh che phủ của sao này, riêng cách cục này chủ định đoạt địa vị, hỉ được Hóa Quyền chủ tinh tường, làm đẹp thêm bộ sao khám phá như Sát Phá Tham, khiến Thất Sát trở thành cướp được của người khác. " Tử Sát đồng cung, Hóa Quyền phản tác tinh tường". Trường hợp giao hội của hai bộ sao lớn nên Sát Phá Tham có cơ may được Hóa Khoa rất cần thiết cho nhóm này, nếu không thì cũng là kẻ giang hồ. Tuổi Giáp Vũ Khúc Hóa Khoa, Tuổi Ất Tử Vi Hóa Khoa, các cách này nếu không bị gặp Không Vong thì đều luận là tốt, có gặp hung sát tinh như Kỵ Hình, Bạch Hổ cũng không quá đáng ngại.



Mệnh Tử Sát Tỵ Hợi nếu hợp cách hỉ đến tam hợp Phủ Tướng chủ nối tiếp cơ nghiệp của tổ tiên, được nâng đỡ dễ thành công, nếu Phủ Tướng xấu chủ bị người khác chèn ép, che phủ. Hạn đến cung Tài Bạch gặp bộ Vũ Tham chủ hoạch tài, thường làm ăn xa và lớn nên dễ tình trạng hoạch phát, của giữ bền hay không là tùy vào sự tốt đẹp của Liêm Phá cung Quan Lộc, tốt nhất là Phá Quân Hóa Quyền hoặc Hóa Lộc đều kể là hạn quyết định trong cuộc đời. Mệnh Tử Vi thì rất khó được hợp cách nên người lãnh đạo luôn chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong dân số. Do Thất Sát tọa mệnh nên không bị lo gặp cách "Quế Sứ Hoa Thương phùng Sát diệu". Với tuổi Ất Nhâm Quý trong tam hợp đều có Hóa Kỵ, rất kỵ gặp sinh tháng có Thiên Hình tam hợp. Thiên Hình chính xác là Nhân Quả như cụ Thiên Lương đã đề cập, nếu sinh giờ Tý khởi hào dương đầu tiên, Thiên Hình đóng ngay cung Tật Ách. Không ngẫu nhiên người xưa nói Tật Ách là những nghiệp báo kiếp trước của mình, trên cơ sở của Tử Vi, vẫn có những nhận định chưa thể giải thích, tạm chấp nhận. 

Thứ Sáu, 17 tháng 10, 2014

Thiên Đồng Tỵ Hợi Cách



Thiên Đồng là sao chủ phúc nhưng một số người nhầm tưởng đây cũng là sao chủ thọ, điều đó chỉ có giá trị khi có Thiên Lương tam hợp thành bộ Đồng Lương, vì vậy bạn không nên ngạc nhiên với nhiều lá số Thiên Đồng không bị sát tinh xâm phá nhưng thọ cũng ở mức trung thọ ở nhưng nơi không có Thiên Lương. Thiên Đồng biểu tượng là đồng ruộng nằm trong nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương chủ người phụ nữ có nhà cửa, lương thực đang làm trên cánh đồng, chỉ vậy thôi cũng hiện ra chữ Phúc, Ấm. Ở vị trí Tỵ Hợi, Thiên Lương ở vị trí đối cung tuy không đẹp bằng ở tam hợp hoặc đồng cung nhưng tuổi thọ vẫn cao nếu không bị phá cách nặng vì " Lương Xung Tọa Thủ Kiêm Thọ Ấm". Thiên Đồng ở trường hợp này còn lợi cho kinh doanh các mặt hàng nông nghiệp, bia, rượu và quan trọng hơn là còn có nhà cửa khang trang và những cơ hội hơn luôn đón chờ ở phía trước," Cự Cơ Mão Dậu Chúng Thủy Triều Đông". Trong Tử Vi, vị trí Thìn Tuất và Hợi là nơi có sự khác biệt hơn so với địa chi khác, riêng ở Hợi thì cần thiết đắc thêm vòng Trường Sinh mới đẹp.



Cách cục này chỉ có ba sao Cự Cơ Đồng ở tam hợp nên giá trị chuẩn mực không bằng khi đủ bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương.nhưng mức độ thành công thì cao hơn hẳn, bộ CNĐL hiền hòa, lương thiện thích sự yên bình thiếu tính tranh giành nên được phê với câu " Cơ Nguyệt Đồng Lương Tác Lại Nhân", chủ làm quan nhỏ, ý chí tiến thủ không lớn. Khi có thêm Cự Môn vào thì mọi việc trở nên kịch tích hơn rất nhiều. Cự Môn là ngôi sao chủ lời nói, và lãnh đạo cần thiết phải có tính khai phá ( Phá Quân ), hành động ( Tử Vi ) và lời nói ( Cự Môn), bộ ba sao này giá trị như Thiên Khôi. Thiên Đồng Tỵ Hợi người khác hay gọi là nơi Đắc Địa và lý do ấy. Một Cự Môn sức chống chịu với Sát Tinh yếu nên toàn bộ cách cục này dễ trở nên cực đoan, vì vậy nên không có Miếu Địa ở nơi này cho Thiên Đồng, trái với Đồng Lương Dần Thân chỉ sợ Không Kiếp, còn lại thì sát tinh tụ hội lại mới có thể uy hiếp bộ sao này khi ở vị trí tốt nhất, chủ sống thọ, nhàn hạ, hạnh phúc nhưng lại địa vị không cao, đều có khuyết điểm. Thiên Đồng cư Tỵ Hợi đẹp hơn bộ Âm Dương Lương ở đối cung vì Thiên Đồng chủ Phúc Phận, Thiên Lương chủ May Mắn, người có Phúc luôn hơn người May Mắn. Vị trí này cần gặp bộ Khôi Việt, vì thế tuổi Đinh, Bính dễ được cả bộ, các tuổi Canh, Giáp khó được hơn. Khôi Việt rất hợp với Thiên Đồng, gặp thêm Không Kiếp cũng không lo lắng vì cách Đồng Việt làm phúc tính cát hóa lớn, nhưng kỵ gặp Linh Hình tạo thành cách Việt Linh Hình phòng sấm sét búa đao.



Mỗi tổ hợp sao tương tác với nhau thành bộ xấu khi được hợp cách sẽ trở thành tốt đẹp, như Kỵ Hình làm lu mờ cả bộ tam hóa nhưng với Cơ Khoa lại thành cách vấn đáp, nghi kỵ, cật vấn nhưng điều liên quan đến khoa học, mà nếu không lên tiếng thì sẽ nguy hại rất lớn. Tang Hổ Điếu Binh là sự kết hợp của bộ Tang Hổ Điếu và Binh Phù, nếu không có Thiên Đồng thì rất dễ gặp nhiều tang thương, có thể là chính mình gặp hung hiểm. Có Thiên Đồng luận là cùng nhau làm việc tốt, phúc thiện, như một tổ chức từ thiện, phục vụ.... Bô Cự Cơ Đồng có Thiên Lương đối cung hỉ được các tuổi Ất được bộ Lộc Quyền 1 xung chiếu và 1 tam hợp, Bính được Lộc Quyền tam hợp, tuổi Đinh được Quyền Khoa Kỵ, các tuổi khác hoặc cần Tả Hữu, Xương Khúc mới đủ Nhị Hóa, còn lại đều không có. Vì vậy, trong " Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư" có nói tuổi Bính rất tốt nhưng chưa giải thích, thực ra là tốt đẹp vì được cả Song Lộc ( Tính cát hóa rất lớn ) và Khôi Việt thêm Hóa Quyền, dễ ăn thêm Xương Hóa Khoa, nếu không có Xương thì cũng là số người giàu, đi theo đường kinh doanh gặp nhiều cơ hội lớn ( Cự Cơ ), theo quan lộc cũng có địa vị lớn. Tuổi Đinh tuy cũng được Quyền Khoa ngộ Khôi Việt nhưng lại gặp cách Cự Kỵ nên chỉ bình thườn, cần thêm cát trợ tinh.



Mệnh có Thiên Đồng rất hỉ được gặp Kình Phượng, vì Thiên Đồng chủ số đông, tán thành, đồng lòng khi gặp Kình Dương chủ sớm, Phượng Các là ngưỡng mộ, dĩ nhiên Tử Vi không phải chỉ dịch như vậy, sâu xa hơn các phụ tinh đều do Tứ Hóa lưu đến các cung mà biến ra, cổ nhân đặt những thế đứng ấy thành các sao với tên âm Hán để dễ dịch và xem xét, luận giải cho đời sau, vì vậy nên có trường phái dùng 24 sao để luận tử vi, tính chính xác rất lớn, cách chế hóa âm dương, bố cục thế đứng, tạm thời chúng ta chấp nhận tên các sao có ý nghĩa riêng của chúng, nhưng đây chỉ là cái cành lá vịn để chúng ta hiểu, không phải gốc rễ là như vậy. Tất cả vị trí của Thiên Đồng nếu gặp được bộ Kình Phượng đều luận là tốt đep, dễ được nổi danh về một lĩnh vực nào đó, tùy khi đi với những các sao, nổi về uy quyền thì đi với Quyền Hình, nổi về đẹp thì đi với Đào Hoa,.... nhưng về phương diện sức khỏe thì ta lại có câu phú " Thiên Đồng Kình Dương, thân thể tao thương", dễ bị thương tích gây ra bởi Kình Dương ( Dương Nhẫn ).











Thứ Ba, 14 tháng 10, 2014

Một Lá Số Thất Sát Cư Tý

Một lá số mẫu luận đoán về Tinh Hệ Sát Phá Tham với Thất Sát Tý Ngọ.


Xét bố cục tinh hệ đây là Tử Vi cư Tuất, với bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm và Sát Phá Tham hoàn chỉnh, do TPVTL có Tử Vi tọa La Võng không đủ lực chế hóa, Sát Phá Tham ở đây sức mạnh ngang bằng với bộ TPVTL, được gọi với tên riêng là " Hùng Tú Kiền Nguyên", ở Tý Ngọ xét như nhau, không có khác biệt vì Nhật Nguyệt Sửu Mùi đều không đắc ý. Sở dĩ Tử Vi cư Tý khác cư Ngọ vì bộ Nhật Nguyệt miếu hãm.
Tính chất của Thất Sát cư Tý là tính cướp đoạt ở đối cung, tức Vũ Khúc và Thiên Phủ cư Ngọ. Rất hỉ nếu bị Vũ Phủ bị Không Kiếp ở tam hợp, ở đối cung thì luận khác, chủ ta đoạt được tiền tài của bên ngoài, tức được tiền của bên ngoài vào, hạn đến Phúc Phối Di đại cát, gặt được những thành tựu không ngờ mà có. Xét đến mệnh của bạn, Thất Sát ngộ Địa Kiếp đồng cư Tý. Mệnh tốt hơn ở giờ Dần, Tử Sát ngộ Tuần Triệt bị Lộc Tồn ngộ Phá Quân, "Lộc ngộ xung phá, cát xứ tàng hung", phú quý là khó đạt được, Tử Vi tối kỵ không vong, may tá tinh mạnh mẽ nên khó bị cảnh đường cùng, lại có Phá Quân chủ muốn phá nhưng Lộc Tồn muốn giữ lại, gặp thêm ông Thiên Hư ( Đại kỵ cho Tử Vi ) Đế Tinh vô lực, tính lãnh đạo chỉ còn ở dạng tiềm ẩn, hư quyền, nhưng nếu mệnh ăn vào Thất Sát thì không luận như vậy .  Mệnh Thất Sát có tính hình khắc, cô độc, gặp thêm Hình Sát nên càng nhấn mạnh tính chất trên, chủ người ngang tàng, phách lực lớn, Thất Sát ngộ Kình Dương và Quan Phủ thì nhất định sẽ ly hương, rời xa bản quán, tổ tông, đáo hạn cũng như vậy, trời sinh ra mệnh Thất Sát thì đa số cuộc đời đều có khó khăn lớn nhưng mệnh tạo lấy đó làm niềm vui, nhất là Tử Vi ở các vị trí miếu cư Phúc Đức mà không bị Không Vong hoặc Sát Tinh xâm hại thì khi hạn đến cung độ TPVTL ắt sẽ đạt được những hoạch định đặt ra. Khi độc tọa ở cung Tý Ngọ, Thất Sát rất giỏi tính toán, cơ mưu đủ đường, ở tinh hệ này có hai tính chất riêng biệt khi hợp cách và không hợp cách là " Quyền Uy" và " Khắc Kỵ", nhờ tiền mà có nhiều quyền trong tay, gặp Kình Dương thì tính khắc kỵ tăng lên, Thất Sát kỵ gặp Song Hao, hạn Bạch Hổ thì tai ương, không nên gặp Địa Kiếp thêm ác sát đồng cung, gặp tại hạn có thể cướp được trong hoàn cảnh ở hạn, "Không Kiếp là tối hung thần, đóng đâu tại đó 10 phần hiểm nguy". Hai sao sử dụng được Không Kiếp khi ngang qua hạn chủ cướp đoạt, phá vỡ được tai kiếp ( Địa Kiếp ) không ngờ ( Thiên Không ) là Thất Sát và Phá Quân, tất nhiên là chỉ tại hạn, còn nằm chung thì chưa kết luận được. Địa Kiếp ở đây ra sức chống đối Thất Sát, lại được trợ lực bởi bộ Kình Hình phản kháng, có thêm Khôi Việt nhân lên hệ số, may không có Linh Tinh không thì họa vô đơn chí. Thất Sát ở đây trong thế không mấy thoải mái, bị chèn ép khá lớn, sẽ phải phản kháng. Trong Tử Vi của Đằng Sơn có một câu phú " Vũ Phủ Kình Kiếp, ác nhân quý hiển", Kình Dương xấu nhưng cũng có mặt tốt, tại sao lại Kình Dương?, vì Kình Dương chủ dương lên, nhiều trường hợp là hung khí nên được xếp vào Sát Tinh, có bộ Kình Kiếp là cướp bóc một cách công khai, tất nhiên là Lộc Tồn không ở bản cung hoặc tam hợp. Mệnh Địa Kiếp, hạn bị thêm Thiên Không hình thành bộ Không Kiếp thì phức tạp hơn nhiều , vì bản mệnh Kim nên hoàn toàn luận theo Thất Sát. Thất Sát có tính hành động rất cao, nhất là  khi gặp hung tinh kích hoạt, vì vậy tối kỵ đi với Kỵ Hình, các câu phú chỉ ra rất rõ, cần những sao giải cho kỵ như Long Hà, Khoa, nếu chỉ gặp Thiên Hình là người chính trực, khẳng khái, Thất Sát Thiên Hình thần long định giáng", Sát Phá Tham rất cần Tuần để định hướng đúng sai, cũng cần Khoa Quyền để hóa tính điên dại của Phá Quân và tham vọng của Tham Lang trở thành quyền lực, danh vọng. Lưu ý Thất Sát có Hao Hình Kiếp kỵ hạn đến Hỏa Linh tức giận không kiềm chế nổi mà sinh họa, ở đây lại không có Hóa Quyền để hành hạ người khác, vì vậy nếu đáo hạn thì chính mình là người bị thiệt hại.



Thất Sát chủ là sự quan sát, cái quan sát là ở đối cung Vũ Phủ, vì vậy người có mệnh Thất Sát nếu Nhật Nguyệt Tật Ách không bị Hóa Kỵ thì có đôi mắt sáng, sâu và sắc, nhìn nhận vấn đề logic, tất nhiên khi không hợp cách là thiên nhiều về ảo vọng, tính hành động bị suy giảm, dẫn đến những tiếc nuối khi đã xong việc, Thất Sát tốt không phải là toàn cát tinh củng mệnh mà khi có sát tinh phù hợp, chỉ một là đủ, gặp nhiều rối ren. Tam hợp ở đây là Phá Quân, khi gặp Hình Kiếp thì tượng là hung khí, đi đến đại hạn có Liêm Trinh ngộ Đà Hỏa nhất định có mâu thuẫn, có thể dẫn đến vào tù, nhất ở hạn này, bạn phải rất lưu ý. Thiên Lương thì hay cho người, Thất Sát thì lấy của người làm của mình, vì thế gặp thêm Địa Kiếp thành bộ cướp đoạt, và dần dần chuyển thành kiếp nạn và trời bắt đầu hành bạn. Hạn 26-36 là hạn rất quan trọng với bạn, tôi sẽ nói kỹ ở phần sau để tránh những việc đáng tiếc xảy ra. Ở cung Tài Bạch, một sao Tham Lang đủ nói lên tham vọng về tiền bạc của bạn, phải nói rằng bạn là người không cần nhiều đến địa vị xã hội, tiền bạc là thứ đặt lên hàng đầu, không có Hỏa Linh thì cái tham vọng ấy chưa đủ lớn, chưa đạt đến sự bạo phát uy quyền, tài lộc, đó cái tốt đẹp nhất mà Sát Phá Tham mang lại cho một mệnh Sát Phá Tham, ở trường hợp này nó lại rất hay bộc phát ( Khôi Việt ) những tai họa cho bạn. Các vận hạn đi không thuận, duy chỉ 10 năm cứu tinh của cuộc đời bạn là hạn 36-46 và các năm Hợi Mão, nhất là ở trong hạn này, lúc đó thì thuận trời, bạn hãy đầu tư, tất nhiên là cũng không phải thứ nào cũng góp mặt vào thì có tan tành hết, nếu tận dụng tốt cơ hội mà Cự Cơ ( Cơ hội lớn ) mang lại thì bạn lại được thêm cả cái danh, cái thanh danh là người giàu, kiếm tiền, đầu cơ giỏi,.... Tất cả các ngôi sao đều tốt, có điều nó đứng không đúng chỗ, không hợp vị nên mới mang danh xấu như Không Kiếp, Tứ Sát. Không Kiếp được gọi là xấu hơn vì đa phần nó đều không đúng chỗ, ít trường hợp điều khiển được nó, lúc đó Thiên Không trở thành bất diệt, bất tử Mệnh rất quan trọng, mệnh tốt thì trừ khi hạn quá xấu, hạn chỉ là Mệnh thứ hai, nếu hạn bình thường thì luận theo cung mệnh mà xem.


Xác định điểm nhấn trên lá số là việc làm quan trọng, hay được gọi là "Tổ Hợp Sao Treo", các tổ hợp này có tính kích phát mạnh, chỉ cần tiểu hạn lưu đến là nhận ngay kết quả, các bộ sao thường nhắc đến là Phi Việt Hỏa Linh Hình ( Khi Lưu Việt tác động ) , Linh Xương Đà ( La ) Vũ Kỵ ( Hóa Kỵ tác động ), Kỵ Hình ( Lưu Kỵ ), Tang Hổ Khốc Hư ( Lưu Tang Hổ Khốc Hư ), Sát Phá Hỏa Hao,.... Hạn xấu gặp thì ắt là thọ mệnh đã hết, vì vậy phải nhìn thật kỹ. Cung an Thân của bạn có TPVTL ngộ Tam Không, thêm Đà Hỏa Hà Sát ngộ Hồng Loan thì cứ Lưu Khôi Việt hoặc Lưu Kỵ kích hoạt thì phải quan tâm ngay đến thân thể, trường hợp xấu nhất là bị giết, không còn thân thể,....





Chủ Nhật, 7 tháng 9, 2014

Âm Dương Thìn Tuất Cách

Đây thực ra phân biệt thành bộ Thái Âm ở Thìn, Thái Dương cư Tuất và ngược lại, có sự đắc ý khác nhau, tuy không rõ rệt vì tứ mộ cung là nơi Thái Âm và Thái Dương giao hội, không rõ ngày đêm nên việc luận đoán không như ở nơi tối tăm như Thái Dương cư Hợi, Tý. Có thể gọi chung là cách Âm Dương Thìn Tuất. Cách này còn có ý nghĩa là sự vật chưa được soi sáng tỏ, lẫn lộn khó phân biệt nếu Dương Tuất Âm Thìn, không hay bằng những lúc bộ sao này phân minh, tất nhiên nên có được phụ tinh định nghĩa thì là đẹp không khác gì những cách khác được trợ giúp. Tính chất của sao Thái Âm chủ cực âm trong lưỡng cực, Thái Dương mang dương tính, vì vậy có thể dùng để luận đoán tình trạng bệnh thiên về âm hay dương, gặp Kình Đà đoán là Âm Dương không điều hòa. Âm Dương là ngày và đêm, Thái Âm chủ phú, tiền bạc có được do sự âm thầm, tích lũy,Thái Dương chủ quý, chủ công khai, công danh cũng có từ đây. Mệnh Nam thích hợp với Thái Dương, mệnh nữ hợp Thái Âm, thường thì bộ Âm Dương tam hợp hoặc đồng cung với nhau nên chỉ xét trường hợp đối cung hoặc như trường hợp Cự Nhật Dần Thân, Đồng Âm cư Tý. Âm Dương cũng có biểu tượng là cha mẹ, gặp Sát Kỵ thì cha mẹ xa cách sớm, ở trên bộ vị khuôn mặt thì Trán bị đường nét gãy ở giữa. Thái Dương còn dùng để đoán cách bệnh đau đầu, thần kinh suy nhược, huyết áp, bệnh tim. Thái Âm thì về các bệnh đường âm như mệt mỏi, đau bụng, thận suy,...



Âm Dương không thích ở vị trí Tuất Thìn, chủ cả hai đều ở vị trí lạc hãm, không được gọi là cát, phải có trợ tinh thì mới trở nên cách đẹp, nhưng vận lên cũng không mạnh bằng đúng vị, đây là cách luận với tất cả bộ Âm Dương. Với câu phú khi bộ Âm Dương ở Tuất Thìn thì có câu phú minh chứng sau : "Dương Âm Thìn Tuất, Nhật Nguyệt bích cung. Nhược vô minh không diệu tu cần.", tức ý câu trước là Nhật Nguyệt ở nơi Thìn Tuất là nơi đẹp, giống như bức tường soi sáng lẫn nhau, nếu đảo ngược lại gọi là vô minh, cần phải có Không Diệu để hồi phục sức sáng. Bộ Âm Dương hỉ nhất là gặp Xương Khúc, thứ đến là Tam Minh trong mọi trường hợp, kỵ gặp các sao làm hỏng cả hai bộ, ví dụ như Không Kiếp gặp Âm Dương không mấy bất lợi, nhưng có thêm Đào Hồng lại thành yểu cách vì " Mệnh trung Hồng ngộ Kiếp Không mạc đàm phú quý". Nhật Nguyệt là Đế Tinh của chòm Trung Thiên Đẩu, vì vậy cát lực khá lớn, nhưng không đủ tính quý phái như của Đế Tinh Tử Vi và Thiên Phủ, tính chất khắc kỵ với các hung sát tinh cũng khác nhau, không sợ gặp Không Vong, nhưng kỵ Tam Không, Kình Đà, kỵ nhất là gặp Tam Ám, làm cho bộ sao này trở nên khiến có thể ảnh hưởng xấu đến đôi mắt, hoặc ngũ quan trong cơ thể, có thể khiến mất mạng một cách oan uổng, những câu chuyện chết kỳ bí, bị giết hại, ... là thái cực xấu nhất của bộ sao này.



Bộ Âm Dương ở vị trí xung chiếu rất hay, chỉ kém hơn cách Nhật Mão Nguyệt Hợi, vì bộ sao này rất thích hợp xung chiếu, xung đẹp hơn tam hợp. Thái Âm rất hỉ Hóa Lộc, dù có ở vị trí lạc hãm có Hóa Lộc đều luận tốt hơn nhập miếu, vì khi hóa khí thì chính tinh đạt được trạng thái cực điểm, uy lực không thể xem thường, không nên tách rời việc sao Hóa Lộc và chính tinh Hóa Lộc, Thái Âm Hóa Lộc hoàn toàn khác với Thái Dương Hóa Lộc. Thái Dương hỉ được Hóa Quyền, chủ được uy tín, cấp trên trọng dụng, là người có tiếng nói lớn, tiếng nói của quý nhân. Hạn đến thường được thăng tiến sự nghiệp nếu không bị quá nhiều sát tinh phá cách,  Thái Âm Hóa Lộc hạn đến thì được tiền của một cách bất ngờ, dài hạn, lớn hay nhỏ là nhờ các sao làm tăng giá trị như Khôi, Đại, Tuần, .... Bộ Âm Dương rất ưa hai bàng tinh nhỏ là Tam Thai và Bát Tọa, gặp được cả hai thì độ cát tăng lên rất nhiều, cũng thích được gặp Khôi Việt, tuy nhiên không nên gặp thêm Hỏa Linh, làm hỏng cả 2 bộ sao. Mệnh đứng ở Thái Âm không luận giống ở Thái Dương. Nếu mệnh Thái Dương luận theo Cơ Nguyệt Đồng Lương ngộ Thái Dương, nếu mệnh Thái Dương luận Cự Nhật ngộ Thái Dương. Ở đây không có sự giao hóa giữa hai bộ sao lớn nên vẫn có cảnh thanh bình, yên ả, vì vậy nên gọi là đẹp. Bộ Cự Nhật có tính chất có tính phản đối, là hai sao chủ quan lộc, Cơ Nguyệt Đồng Lương thì âm tính, , có tính đồng thuận, chủ tài bạch. Bộ Cự Nhật không thích Lộc Tồn, ngược lại Cơ Nguyệt Đồng Lương lại tối ái sao này, Cự Nhật không nên gặp Kình Dương, chủ phản đồi thái quá. CNĐL không nên gặp Đà La chủ âm thầm thái quá, do có Âm Dương nên dễ bị biến đổi theo chiều hướng cực đoan.


Tuổi Đinh và tuổi Tân được lợi với cách cục Âm Dương Thìn Tuất, bởi vì tuổi Đinh có Thái Âm Hóa Lộc và tuổi Tân có Thái Dương Hóa Quyền, là thượng cách, dễ được thêm cả Lộc Tồn tạo thành bộ Song Lộc, mệnh nên ở cung giáp với Khôi Việt, chủ có quý nhân giúp đỡ, làm tăng thêm tính sáng cho bộ sao này. Mệnh có Nhật Nguyệt lưu ý đến hạn Cự Môn bị Hóa Kỵ, hoặc bản thân Thái Âm hoặc Thái Dương Hóa Kỵ đều là không nên gặp, ngay cả khi nhập miếu. Thái Dương có một cách cục rất hay là Dương Lương Xương Lộc, dù ở bất kỳ vị trí nào đều được gọi là hợp cách, Thái Dương có tính hướng lên, dương lên gặp Thiên Lương may mắn, có Xương Lộc duy trì tính bền vững nên gọi là người đàn ông có lòng từ tâm, không bị ác sát tinh chiếu tọa luận được chữ Thọ. Thái Âm thích được Tả Hữu Lộc Tồn thuộc cách phú đồ ông, khả năng tích lũy tiền bạc cực lớn, thuộc cách âm thầm dành dụm, âm thầm được giúp đỡ mà thành công. Hạn đến Thái Âm Hóa Lộc, gặp thêm Lộc Tồn mà lưu niên cũng Hóa Lộc, có Lưu Khôi Việt kích hoạt thì có rất nhiều cơ may được tiền bạc, nhất là khi có Thiên Lương hoặc Thiên Đồng ở tam hợp.



Thứ Ba, 12 tháng 8, 2014

Liêm Phủ Thìn Tuất Cách




Đây thuộc tinh hệ Tử Vi cư Ngọ, tinh hệ hoàn chỉnh của nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm với cung Phụ Mẫu được cách "Nhật Nguyệt Tịnh Minh", dĩ nhiên là Tử Vi cư Ngọ đẹp hơn ở Tý cung khá nhiều, nhưng đó là khi được cát tinh trợ lực nhưng nếu bị hung tinh xâm phạm thì cũng không cần luận Tý Ngọ, vì bố cục chính tinh mang ý nghĩa chính, bàng tinh mang công việc cộng hay trừ cho ý nghĩa nó được hoàn thiện. Vì vậy, quan trọng là việc bàng tinh phụ tá cho cách cục được thành lập. Nếu Tử Vi cư Tý được cả Thái Tuế và Tả Hữu, không bị Tuần, Triệt, Thiên Không ( Địa Không ) thì ắt Tử Vi cư Ngọ nhưng chỉ có Tả Hữu không thể sánh bằng, ví như việc so sánh quan chức địa phương với nguyên thủ quốc gia, đây là cách nói tượng hình để so sánh tính chất giữa hai cách, phân biệt rõ ràng không bị hiểu sai những câu phú tiền nhân để lại cho hậu thế.



Thiên Phủ tại Mệnh ( phân biệt với Thân ) chủ người có tính cách cẩn trọng, khả năng tích lũy tốt, thường không bị phá cách thì được chữ phú, khả năng lãnh đạo cao, khi đi với Liêm Trinh tại hai cung Thìn Tuất thì tính thu mình, thận trọng dò xét càng lớn, lấy đạo đức làm chủ, công việc có tính chất quản lý, giám sát. Thiên Phủ chủ thọ và khả năng lãnh đạo cao ( Tử Vi, Thiên Phủ ) nên khi hợp cách thì bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm được ca tụng hết lời, tuy vậy Thiên Phủ rất dễ bị phá cách bởi Không Vong, chỉ cần gia một sao cũng đủ làm phá cách trầm trọng, khiến người Thiên Phủ phải nhận lấy yểu mạng, không có nhà cửa, bơ vơ nay đây mai đó, nhẫn đến bị các bệnh nan y liên quan đến phủ tạng. Trường hợp xấu khi Tuần Triệt chắn tại cung Mệnh, nếu ở tam hợp thì chỉ không lợi về công danh khi ở cung Tử Vi, với Thiên Không thì tính cả tam hợp. 



Cách cục này rất hợp với sao Thanh Long, lưu ý là chỉ xét Thanh Long ở cung tam hợp hoặc đồng cung, nếu Thanh Long xung chiếu thì lấy sao Bệnh Phù để luận . Nếu bị Không Vong trấn mệnh gặp Thanh Long được gọi là phản vi cát tường, tức trở nên khá tốt vì Thanh Long chủ thanh danh, là tiếng nói cứu nguy cho Thiên Phủ về mặt tiền bạc và tuổi thọ, còn về công danh thì phụ thuộc nhiều vào hung cát tinh. Nếu gặp phải Thanh Long xung chiếu, tức mệnh bị Bệnh Phù thì bị thêm cách "Lộc Tồn ngộ Thiên Không ( Địa Không )" hay còn gọi là " Lộc Đảo", trường hợp này Thiên Phủ đã trở nên phá cách, chủ luận đoán đảo ngược, nếu ngộ Tam Không thì dễ gặp hung nguy.



Thiên Phủ hoàn toàn vô lực trước Thiên Không ( Địa Không ), nhưng gặp Địa Kiếp không luận đoán như vậy, nếu gặp Địa Kiếp tam hợp có Tuần Trung thì chủ đa tai, đa nạn nhưng không đến nỗi mất mạng, vài trường hợp dụng sát tinh mà trở nên bạo phát tài lộc, không nên gặp thêm Lộc Tồn chủ tồn tại những tai nạn khiến gặp hạn xấu dễ mạng vong. Nếu tuổi Đinh và tuổi Kỷ mệnh an tại Thìn cung có Thanh Long thì gặp Không Kiếp tam hợp hoặc Tuần, Triệt tại bản cung đều luận là tốt, Thanh Long cư Thìn là nơi đắc ý. Nếu mệnh an tại Tuất thì phá cách, tức mệnh có Bệnh Phù, tất nhiên là xấu khi có Không Vong, nếu không có thì tính là Thiên Phủ ngộ Lộc Tồn, chủ phú quý lâu dài, trường tồn. 



Tả Phù là sao tốt thứ hai cho Thiên Phủ, chủ có trợ thủ đắc lực để lãnh đạo, được cách "Tiền hô hậu ủng". Nếu được Tả Hữu thì tốt cho cả Tử Vi, sinh tháng 9 âm được thêm bộ Xương Khúc thích hợp cho Vũ Khúc, ở tại đây thì Xương Khúc không được tốt cho lắm vì dễ gặp cách Linh Xương La Vũ chủ dễ bị xúi giục mà đâm họa, nếu có Hóa Quyền luận ngược lại, nếu mệnh Thiên Phủ không bị phá cách thì không đáng ngại vì Thiên Phủ chủ che chở, nhưng bị tam không xâm phạm thì cẩn trọng kẻo lộ đồ khảm kha. Người xưa có viết câu phú " Thiên Phủ Tuất cung vô sát tấu, Giáp Kỷ sinh nhân phú vạn kim". Phân tích câu phú này thì ở tuổi Kỷ có Vũ Khúc Hóa Lộc, Ngọ cung Tử Vi có Lộc Tồn tạo thành cách Song Lộc, khi giao hội với Tử Phủ Vũ Tướng Liêm không bị Tuần, Triệt, Thiên Không, Địa Kiếp thì chủ tài lộc cực lớn, phú quý vang khắp quốc gia ( Quốc Ấn ). Xét ở tuổi Giáp, Lộc Tồn an tại Dần cung, Liêm Trinh Hóa Lộc ở mệnh cũng tạo thành cách Song Lộc, được ví như cái kho tài lộc nằm ở cung mệnh, giàu đại phú.

Thứ Bảy, 9 tháng 8, 2014

Thất Sát Thìn Tuất Cách





Đây là vị trí có hai sao cố định là Thiên La và Địa Võng xung nên có những rối loạn khác ở thập nhị cung còn lại, vị là chỗ của vướng mắc trong trời đất nên bộ sao Cơ Lương và Vũ Tham tài năng có dịp trổ tài biến cái khó khăn thành sự mưu mẹo nhà sự khéo léo của mình, cung Thìn Tuất là nơi chứa đựng sự oan khốc, Thất Sát là sao chính trực công minh, không thích lươn lẹo, cũng không giỏi lấy lòng người khác, đối nhân xử thế. Vì vậy mới có câu phú " Sát ngộ Thiên Hình, Thần long định giáng", chủ là người chính trực, lấy sự trung thực làm bản chất, xử lý việc công bằng, tất nhiên là phải có Khoa Quyền và không bị phá cách mới có thể luận là như vậy, còn nếu gặp thêm Hóa Kỵ là " Hình Kỵ Thất Sát tương phùng, thiếu niên yểu chiết như dòng Nhan Uyên", vì vậy phải xét đủ tam phương tứ chính, nếu một sát tinh hội cách khác mà nhiều thì tạo ra cách khác nhau. Khi Thất Sát cư Thìn thì bộ Tử Phủ Vũ Tướng được ở nơi đẹp nhất trong 12 cung, tối hỉ cung Thân an tại Tử Vi vô kiến Tuần, Triệt, Thiên Không ( Tức Địa Không ) và chỉ cần Tả Hữu, hoặc thêm Trợ Tinh hội  chiếu, được coi ngang bằng Tử Vi thủ mệnh, vì cung Thân là Thân Thể, Thân Xác, Thân Phận. Chỉ luận cung Thân cát ở tùy từng trường hợp, ở trường hợp này là đẹp nhất, ở Thiên Phủ khá tốt, kỵ cung Thân là Vũ Tướng chủ cơ thể khiếm khuyết, sinh ra không được đầy đủ như mọi người nên ảnh hưởng rất nhiều đến mệnh tạo nhưng còn tốt hơn là Thân cư Thất Sát, vì đây là cách bị giết, bị hành hạ thân xác, dễ bị yểu mạng.



Thất Sát cư cung Tuất không thể sánh bằng cung Thìn bởi Âm Dương lạc hãm, hạn đến Tử Vi cư Tý không được vinh quang, nếu có cát hóa thì cũng được gọi là đẹp, Âm Dương xấu thì vãn niên thành đạt, vì vậy những người mắt sáng, thần khí tịnh ổn lúc trẻ thường được sung sướng, công danh sớm toại chí, hạn đến gặp rất tốt, tất nhiên là không có những sao kỵ cho Âm Dương làm bộ sao này mất hoàn toàn giá trị, như Không Kiếp hoặc Tuần Triệt khi Âm Dương sáng, hoặc Việt Linh Hình chủ phát sinh tai họa,.... Cung Tuất thuộc tam hợp Dần Ngọ Tuất, ở cả hai vị trí Thìn Tuất đều không thích Lộc Tồn đồng độ với Phá Quân hoặc Thất Sát, nếu Quốc Ấn ở đồng cung thì được gọi là đẹp. Thất Sát ở Tuất thích được Khoa Quyền củng chiếu, hoặc được 2 trong 3 tam hóa thì tốt, tuổi Giáp là thượng cách, vì vậy không nghi ngại gì khi nói đến "Giáp" tức ám chỉ tài năng về lĩnh vực quân sự, thích hợp theo nghiệp võ đạt bao phát, vì ở đây rất dễ có được nhị hóa, cá biệt có trường hợp được cả tam hóa, có Thiên Hình không gặp thêm Thiên Việt hoặc Hóa Kỵ áp đảo vạn người, đứng ở nơi cao, phong thái xuất nhập tướng. Thất Sát ở vị trí này tuy không được đắc ý như ở Dần Thân Tý Ngọ, vì thế đứng ở cung xung chiếu không có lợi. Ở Tý Ngọ thì Thất Sát đoạt được tài lộc từ đối cung Vũ Phủ, ở Dần Thân thì được công danh của Tử Phủ đồng độ. 



Thất Sát khi ở cung Thìn Tuất thích được Thái Tuế tam hợp hoặc chính mệnh, Phượng Các tam hợp cũng chủ là người nổi tiếng, có danh vọng lớn trong xã hội. Bộ Sát Phá Tham là bộ sao duy nhất không cần thiết Tam Hóa, chỉ một Hỏa Tham đắc cách cũng đủ trở thành phú ông, khi được Tam Hóa thì lợi lộc trở nên lớn vô cùng, tức người vừa có dũng vừa có mưu, tài quan song mỹ, hạn đến Không Kiếp cũng không lo, chủ cướp đoạt được của cải vật chất, gây áp lực cho người khác. Tuy vậy, Thất Sát vẫn có những sao Bạch Hổ, Dương Linh, Triệt đồng cung chủ hiền lành thái quá, khó tranh đua cùng người khác. Mệnh có Thất Sát không bị lo gặp cách " Thất Sát ngộ Quế sứ hoa thương" chủ hạn đến khả năng cao là chết do tang tóc, khóc lóc từ các cung có đến bản thân, đây là một cái lợi của sao này. 



Nói chung vị trí Thất Sát độc tọa ở Thìn Tuất không phải là xấu, vì còn các vị trí xấu hơn như Tử Sát ( Nếu không có Hóa Quyền ), Vũ Sát, Liêm Sát, đều là những cách không thể sánh bằng cách này, vì khi nhóm sao Tử Phủ Vũ Tướng Liêm giao hội với Sát Phá Tham tạo thành những mâu thuẫn làm rối loạn cách cục, sáu cường cung đều bị ảnh hưởng dẫn đến đời người có nhiều trắc trở, hai hạn ở cường cung đều không đẹp thì cuộc đời mất khá nhiều thời gian vô ích. Thất Sát ngộ Triệt tam hợp chủ là người tôn trọng tính mạng của người khác, ngay cả của sinh vật khác , vì thế Sát Phá Tham rất thích Tuần Triệt, tính sát không vượng nên cuộc đời cũng ít gặp gian truân, hung hiểm vì không liên quan đến chữ " Giết " và " Bị Giết". Việc các câu phú Thất Sát ở các cung này nên thiên về kỹ nghệ là khi có Kình Dương hoặc Đà La chủ dao kéo thì sớm thành tựu, nếu có Hóa Lộc của tuổi Quý, tức Phá Quân Hóa Lộc thì nên theo nghành kinh thương rất hợp, chủ có chiến lược hoạch định, làm việc nghiêm túc và khám phá đúng chỗ mà sinh ra tài lộc.

Thứ Bảy, 12 tháng 7, 2014

Thiên Đồng Thìn Tuất Cách




Thiên Đồng là sao thuộc nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương, thuộc sao thứ tư trong chòm Nam Đẩu Tinh, tính cát diệu rất lớn, ở cung đắc ý có thể chế hóa được hung tinh, trừ gặp bộ Không Kiếp là bị phản tác, tính cát diệu giảm, lực mạnh khi hội cùng trợ tinh Khôi Việt, chủ thuộc cách phát phúc, ở cung mệnh càng tốt đẹp, chủ hình thể đẹp đẽ, diện mạo trang nghiêm. Nếu gặp Việt Linh Hình thì không phải là quá tốt, gặp Không Kiếp thì không thể luận là xấu, thuộc cách trong họa có phúc. Vì vây, sao Thiên Đồng được luận là cát tinh, nằm 12 cung đều luận là tốt, nhưng thực nghiệm thì tùy việc phối hợp các sao, nếu gặp cách xấu không đến nỗi mất mạng, ngay đến đại sát tinh Không Kiếp nếu không bị gặp thêm các cách xấu khác phối hợp cũng không đủ sức làm Thiên Đồng bị khuất phục. " Thiên Đồng ngộ Không Kiếp bất cát". Thiên Đồng vị trí đẹp nhất là đồng độ với Thiên Lương thành Đồng Lương cách, bộ sao này rất hỉ Dần Thân, nhưng cũng chính vì vậy gặp Không Kiếp trở thành vô phúc, lắm họa cách. Thiên Đồng ở các vị trí đắc ý thì luôn có đủ bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương trong tam hợp, khi đó hình thành các cách tốt như Đồng Âm, Đồng Lương,...Mệnh hoặc Thân nếu có sao Thiên Đồng, hoặc Thiên Lương tọa thủ ở bất cứ cung nào không bị sát tinh giao hội phá cách đều được hưởng câu phú " Bất phạ tai ương", tức không lo việc tai ương họa hại vì luôn được che chở bởi những thế lực vô hình, khi đó Đồng Âm ( Thiên Đồng, Thái Âm ) chính là âm phúc, cũng có nghĩa là âm thầm hưởng phúc phận.




Thiên Đồng độc tọa ở hai cung Thìn Tuất là ở thế la võng, tính động của sao này bị giảm xuống, vì vậy ở vị trí này có những ưu thế và khuyết điểm riêng cho cả tinh hệ. Tính chất của Thiên Đồng khác biệt so với Thiên Lương, bộ Cơ Lương rất thích ở cung Thìn Tuất vì đây là hai sao tài năng nhất của nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương, ở nơi La Võng thì sự khéo léo của hai chính tinh này trở thành mưu lược, tính sáng suốt và trí xảo rất lớn, sao Thiên Đồng thì không được như vậy, việc kìm hãm ở hai cung Thìn Tuất sẽ làm Thiên Đồng không thể phát huy hết đặc tính " Hoán Cải Vô Thường", tam hợp có Thiên Cơ trở thành cơ hội để cải cách, cải tiến và thay đổi mình để đưa đến sự thành công, ở đây tính bất an, lo lắng khi thực hiện kế hoạch của Thiên Đồng cũng tăng cao hơn so với các vị trí khác. Đây là bố cục hội đủ bốn sao của cách cục lớn, chỉ kém cách Đồng Lương Dần Thân và Đồng Âm cư Tý, Thiên Đồng Tỵ Hợi. Mệnh Thiên Đồng ở Thìn Tuất rất thích có Kình Dương và Phượng Các tam hợp hoặc xung chiếu thành cách cục " Đồng Âm Kình Dương phùng Phượng Các", không thích gặp thêm Hỏa Tinh, nếu chỉ có Linh Tinh, không có Hình Việt cũng coi là tốt, không xấu.




Thiên Đồng cư Thìn tốt hơn ở Tuất vì khi đó Thái Âm sáng, chủ Âm Phúc lớn, việc hưởng phúc được sớm và sự nghiệp hanh thông hơn ở Tuất. Vì vậy, khi luận ở cung Tuất thì tuổi Đinh được cách " Càn Cung Phản Bối" vì giáp bộ Khôi Việt, mệnh và tam hợp chiếu được Khoa Quyền Lộc Kỵ, đủ tứ hóa, nhìn trên cung Ngọ ở tam hợp được Lộc Tồn, hưởng cách Song Lộc, ở cung xung chiếu là Cự Môn Hóa Kỵ có Thanh Long thành cách Long Kỵ Hà chủ ra ngoài được thanh danh lớn, mọi người mến mộ, nếu không có Không Kiếp phá hoại thì thuộc thượng cách, tổ hợp rất đẹp, hưởng phúc trường tồn tuy Cự Âm lạc hãm. Vì vậy, quan trọng ở việc phụ tinh có phù hợp hay không mới có thể quyết định cát hung. Mệnh Thiên Đồng rất thích Lộc Tồn đồng độ, không nên ở cung có Cự Môn vì " Cự phùng tồn tú, cát xứ tàng hung", Lộc Tồn chủ trường tồn, đi với Đồng Lương trở thành phúc thọ trường tồn, lại là sao Lộc nên được cả ba thứ mà  mọi người mong ước, tuy vậy tính lãnh đạo của bộ sao này không lớn, khó có thể đạt đến ngôi vị cao nhất, không chủ quan lộc mà chủ tài lộc, đi kinh thương thì vào dạng của cải để không hết, phúc để lại cho con cháu rất lớn. Thiên Đồng cư Tuất tuổi Đinh tốt nhất, được Lộc Tồn, tuổi Kỷ cũng có Lộc Tồn nhưng Tứ Hóa là Vũ-Tham-Lương-Khúc nên chỉ có Hóa Khoa, không may bị thêm Hóa Kỵ.




Xét về mặt tứ hóa thì tuổi Bính được Thiên Đồng Hóa Lộc và Thiên Cơ Hóa Quyền, khi đó đồng thời Thái Âm Hóa Kỵ, Lộc Tồn ở cung Tỵ, khi đó sẽ bị Kình Dương hoặc Đà La ở tam hợp chiếu mệnh, được giáp bộ Khôi Việt như ở tuổi Đinh, mệnh ở hàng trung cách, nếu thêm Xương Khúc Tả Hữu hội chiếu thì có thể theo con đường kinh doanh hoặc quan lộc đều được, không nên gặp thêm Hỏa Linh thành bộ Hỏa Kình, càng không nên gặp thêm Không Kiếp gây phản lại cách cục. Mệnh tại Thìn nếu tuổi Ất thì cũng được gọi là đẹp vì có Cơ Lương hóa Lộc Quyền, gia thêm Khôi Việt, sẽ gặp Kình Dương hoặc Đà La vì Lộc Tồn an tại Mão, nếu gặp Kình Dương tốt hơn, không có Phượng Các và Tứ Linh, khi có có Kình Dương cũng không phải là vị trí đẹp, tuy vậy vẫn hơn các tuổi khác vì được nhị hóa, thêm Xương Khúc Tả Hữu thì công danh lớn, làm quan chức to. Thiên Đồng tuổi Canh có một số tình huống Thiên Đồng tuy Hóa Kỵ nhưng trở thành những đứa trẻ có tài năng lớn, thuộc dạng kỳ tài.

Thứ Năm, 10 tháng 7, 2014

Kiến Thức Luận Giải Lá Số 3




Nếu một người nắm vững những tính chất, có nhiều kinh nghiệm trong việc luận đoán lá số trong vòng vài thập kỷ thì sẽ nhận ra được sự miếu hãm của các sao một cách rất dễ dàng mà không cần phải để ý đến những cuốn sách tiền nhân viết, hay những sách man thư để nghiên cứu tử vi sai lệch. Các bộ sao chính trong tử vi là Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương và Cự Nhật. Đây là bốn cách cục rất cơ bản và luôn đẹp khi hoàn chỉnh, những cách vô chính diệu tạm thời chưa xét đến để bạn biết rõ về nguyên lý đắc hãm của các sao. Các sao hội họp hoàn chỉnh là nơi đắc ý, sau đây là một số nhận xét về các tinh hệ riêng. Nhận xét đầu tiên là " Bất kỳ từ vị trí nào trừ bộ Nhật Nguyệt nếu hội đủ một trong 4 cách cục lớn thì gọi là đắc ý". Ví dụ như cách cục Cơ Nguyệt Đồng Lương. Các bộ sao được xét là đẹp như Đồng Lương Dần Thân, Cơ Âm Dần Thân, Thiên Cơ Tý Ngọ, Cơ Lương Thìn Tuất, Đồng Âm Tý Ngọ,... đều xét là vị trí đắc ý của các sao như phú đã viết.



Sở dĩ ba bộ sao lớn được viết là vì lý do này, tất nhiên đắc ý còn phải hợp cách, được cát tinh và hung tinh phù hợp mới được như các câu phú, còn không thì tùy vào phá cách nặng hay nhẹ mà bị họa về từng mặt như tiền tài, công danh, sức khỏe,....Xét với bộ Âm Dương thì phân ly đắc hãm theo phương ngang nên có sự khác biệt, ví dụ như Đồng Âm cư Ngọ không thể bằng Đồng Âm cư Tý. Sau đây là những cách cục gọi là tốt của 4 nhóm sao chính, lưu ý là nếu có Thái Âm sáng ban đêm thì chủ đẹp hơn khi ở cung ban ngày, tất nhiên tùy mệnh tọa thủ các chính tinh mà luận đoán khác nhau, nhưng xét về mặt hoàn chỉnh và chưa hoàn chỉnh để phân biệt nhóm đạt và trung bình.


Cơ Nguyệt Đồng Lương :

Cách Cục Hoàn Chỉnh Đắc ý :

- Đồng Lương Dần Thân.


- Cơ Lương Thìn Tuất.


- Thiên Đồng Thìn Tuất.


- Thái Âm Thìn Tuất.


- Thiên Lương Tý Ngọ.


- Thiên Cơ Tý Ngọ.


- Cơ Âm Dần Thân.


Cách cục trên đều được các câu phú cho các sao tọa thủ là nhập miếu hoặc vượng địa, chú ý Thái Âm sáng tốt hơn ở nơi hãm,

Cách Cục Chưa Hoàn Chỉnh :

- Không có Thái Âm sáng :


- Đồng Lương Tỵ Hợi ( Thiên Đồng Tỵ Hơi và Thiên Lương Tỵ Hợi, xung chiếu nhau).


- Cơ Lương Sửu Mùi : ( Thiên Cơ Sửu Mùi và Thiên Lương Sửu Mùi, xung chiếu nhau).


- Thiên Đồng Sửu Mùi : ( Thiên Đồng Sửu Mùi ).


- Thái Âm Sửu Mùi ( Thái Âm Sửu Mùi ).


- Cự Cơ Mão Dậu. ( Cự Môn, Thiên Cơ đồng cung Mão Dậu ).


- Cơ Âm Tỵ Hợi ( Thiên Cơ Tỵ Hợi, Thái Âm cư Tỵ, cư Hợi Âm Dương sáng ).


- Có Thái Âm sáng, luận là đắc ý :

-Thái Âm Hợi( Thái Dương Mão " Nhật Xuất Phù Tang", Thái Âm Hợi " Nguyệt Lãng Thiên Môn" 


Bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương rất kỵ Linh Hỏa, gặp Linh Tinh không ngại bằng Hỏa Linh, một số trường hợp có sự phối cách hợp lý, trở nên tuyệt mỹ, sát tinh là nòng cốt cho tinh hệ, đẹp hơn rất nhiều so với không có, đây là bản chất của sát tinh, một khi hợp cách sức mạnh không thể xem thường, một sao có thể sánh ngang với tổ hợp nhiều cát tinh hội họp. Ví như câu phú " Đồng Lương Dần Thân, tăng phùng Linh Kỵ, giao lai Song Lộc, hoạch đạt phú cường". Mệnh Thiên Đồng và Thiên Lương tọa thủ ở Dần Thân, khi có Linh Kỵ ( tốt là lệnh cờ, thương hiệu ), đi với Song Lộc chủ kinh doanh làm ông chủ lớn, tính may mắn và phúc cao. "Đại phú do thiên, tiểu phú do cần cù", nếu không bị Không Kiếp thì đều luận là người giàu có tiếng trong quốc gia, cách cục đẹp thì tiếng tăm nổi trên cả thế giới. Là người trọng tình cảm, khi đó Hóa Kỵ ở đây chủ kỳ lạ, kỳ tài. Việc quan sát mệnh không chỉ toàn cát tinh mà luận là đẹp, phải có những điểm nhấn mạnh làm nổi bật lên cát tinh, việc gian khổ mới có thành công là chuyện tất cả mọi người đều trải qua, nếu không thì sẽ nhanh chóng thành công sớm nhưng thất bại liền kề, hoặc thành công không lớn so với thực lực,...

Bộ đại sát tinh Thiên Không và Địa Kiếp là bộ đôi tính sát rất lớn, hình tượng chủ là xác chết, độc tọa ở Mệnh chủ gặp một cái nạn trong thời điểm trong đời, không phải là cả cuộc đời chỉ có màu đen, người sinh tháng tư và tháng mười không thể luận một cách vô căn cứ là mệnh Không Kiếp tối hung thần, chủ mệnh nghèo hèn, cũng không luận là mệnh ở tháng tư với tháng mười có Không Kiếp là vô hại,... tất cả là những lời nói rất thiếu tính chính xác, không được kiểm nghiệm, nói với mục đích cho sướng miệng, vô tình hại những người đang muốn xem lá số cuộc đời của chính họ, xem tử vi như đặt cược cả tính mạng, thầy tử vi nếu luận sai là có lỗi với họ rất lớn. Người sinh tháng tư và tháng mười nổi tiếng rất nhiều, hiện nay như Zuckerberg ( 14/5/1984), nữ hoàng Victoria ( 24/5/1819 ), nhưng đúng theo lời tiền nhân đã nói, mệnh Không Kiếp ở xã hội xưa hoàn toàn không có cơ hội để tạo nên địa vị, danh lợi.



 Tuy nhiên, khi tôi kiểm nghiệm qua rất nhiều lá số ở hiện tại xã hội phát triển ở thế kỷ nay và kết quả là hoàn toàn khác biệt, cách kiểm nghiệm của tôi có đủ thông tin về Giờ - Ngày - Tháng- Năm- Địa Lý nhưng bạn hoàn toàn có thể kiểm tra bằng cách sử dụng cơ sở Ngày - Tháng - Năm sinh vì Không Kiếp an theo tháng, người sinh tháng tư và tháng mười luôn có một trong hai sao ở cung mệnh. Bạn hãy vào sử dụng công cụ tìm kiếm của Google và gõ từ khóa " 10 tháng 5" đến " 25 tháng 5 ", Wiki sẽ hiện ra những sự kiện, ngày sinh của người nổi tiếng, dùng lịch Âm Dương đổi ra ngày âm và nó sẽ giúp ích cho bạn rất nhiều, nhìn chung các nhà lãnh đạo lớn sinh vào các tháng 1,3,5,7,9,11 ( Âm lịch ), nhưng tháng đó cường cung không có Không Kiếp. Điều đó chứng minh là những người mệnh có Không Kiếp làm lãnh đạo rất hạn chế, nhưng họ đa số phát triển theo hướng ngành nghề mới của thế kỷ nay như Khoa Học, Nghệ Thuật, Cầu Thủ, Đạo Diễn, Diễn Viên, Nhạc Sĩ, Ca Sĩ, Chính Trị Gia... rất nhiều những ngành nghề mới đều có mặt có bộ sao này ở Mệnh. Đúng Không Kiếp là bộ sao trời hành, nhưng nếu có chỗ đắc dụng với ngành nghề thích hợp thì sẽ đạt được những thành tựu lớn, nhắc đến ca sĩ ở Mỹ thế kỷ trước thì đi liền với tiền tài rất dồi dào, lại được ngưỡng mộ của mọi người, họ nổi tiếng theo một cách riêng, các nhà khoa học lớn trên thế giới, ở Việt Nam có một Ngô Bảo Châu, tôi tin chắc rằng ông sẽ có bộ Không Kiếp ở tam hợp mệnh. Vì vậy, quan trọng là sát tinh có chỗ dụng, được những bộ sao phù hợp sẽ thành công rực rỡ hơn người khác rất nhiều. Mệnh Không Kiếp còn rất nhiều những lý thuyết nằm trong đó, giống như Hóa Kị mờ ám, phải tiếp xúc nhiều mới có thể nhận ra các tính chất, họ hay che dấu những suy nghĩ, tính cách. Không Kiếp có sự khác thường rất lớn, cổ nhân nói không sai khi nhận định đây là bộ sao " Phản Truyền Thống".


Mệnh Thiên Không ( Một số nơi gọi Địa Không) đa phần tốt hơn Địa Kiếp, Mệnh Thiên Không, Thân Địa Kiếp ( Tháng Mười ) luôn dễ đạt được sự hợp cách hơn tháng tư, tai họa cũng không thể bằng việc Địa Kiếp thủ mệnh. bộ Không Triệt mang tính chất tốt, chủ Triệt bỏ được những bất ngờ từ Thiên Không. Mệnh Địa Kiếp có Triệt tạo thành bộ Kiếp Triệt trừ bỏ những tai họa trong cuộc sống, có thể luận là cuộc sống không gặp những tai ương họa hại cho đến những vận hạn có Hóa Kỵ xung hợp, vì vậy mệnh như vậy nên đề phòng lưu niên hoặc đại hạn có sao này. Hóa Lộc thích hợp với Không Kiếp, việc hóa giải bại cách cũng rất cần đến sao này, Lộc Tồn thì kỵ Không Kiếp, phân biệt Hóa Lộc và Lộc Tồn phải biết quy tắc vận hành của chúng để đưa ra những luận giải chính xác.




Thứ Tư, 2 tháng 7, 2014

Vũ Tham Thìn Tuất Cách



Vũ Khúc và Tham Lang khi xung chiếu tại Thìn Tuất tạo thành cách cục nổi tiếng Vũ Tham Tứ Mộ, nếu có Linh Tinh hoặc Hỏa Linh mặc dù không hợp với Vũ Khúc nhưng trong trường hợp này là bạo phát tài cách. Mệnh có Vũ Khúc, cung xung chiếu là Tham Lang luận khác với chính tinh thủ mệnh Tham Lang, vì một bên là Tử Phủ Vũ Tướng Liêm nếu Vũ Khúc thủ mệnh và Sát Phá Tham với Tham Lang thủ mệnh. Lực lượng của hai nhóm sao này ở các cung xung chiếu rất mạnh, gần như tương đương nhau, không như tinh hệ Tử Vi Cư Ngọ thì bộ sao hung bạo Sát Phá Tham phải khuất phục trước uy lực của đế tinh Tử Vi tọa thủ ở nơi cao nhất cung địa bàn mà thành lính gác cổng cho nhóm Tử Phủ. Cách cục Vũ Tham thường phát tầm trung niên, nếu có Hỏa Linh thì thành công sẽ sớm hơn và lớn hơn khi không có hai sao này. Việc khác nhau của việc mệnh Vũ Khúc hoặc mệnh Tham Lang đơn giản nhất là sao Lộc Tồn, nếu như mệnh Vũ Khúc có Lộc Tồn trở thành cách cục lộc bền vững trường tồn nhờ Thiên Phủ và Vũ Khúc tam hợp bổ trợ cho nhau, nếu mệnh Tham Lang có Lộc Tồn sẽ thành cách cục Sát Lộc và Phá Lộc, nếu thêm Hóa Kỵ sẽ làm Lộc Tồn bị giảm lực cát hóa. Các cách cục xấu rất nhiều người có, nhưng nếu hướng giải bằng ngành nghề hợp lý hoặc lợi dụng thời cơ tốt ( Thiên Cơ tốt ) sẽ dần tới những biến chuyển mạnh mẽ không ngờ đến.



Vũ Khúc và Tham Lang là hai sao chủ tài năng nhất của nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm và Sát Phá Tham. Vũ Khúc tượng trưng cho tiền bạc, Tham Lang là tham vọng, vì vậy khi xung chiếu thì ra bên ngoài có ham muốn, bên trong ra sức kiếm tiền để thực hiện ham muốn ấy. Nếu xét về mặt định nghĩa thì Tham Vũ Thìn Tuất không bằng Tham Vũ đồng hành ở Sửu Mùi, vì khi Tham Vũ đồng hành thì tính hỗ trợ nhau lớn hơn khi xung chiếu, nhưng khi ở Sửu Mùi thì bộ Tử Phủ và Sát Phá Tham giao hội với nhau, hai bên đều có hại tạo ra những cách khủng hoảng (Vũ Sát) xấu. Cách cục này tương tự như Cự Cơ Mão Dậu và Cự Cơ Tý Ngọ, rõ ràng Cự Môn và Thiên Cơ ở cung xung chiếu Tý Ngọ đẹp hơn vì hình thành cách cục chuẩn Cơ Nguyệt Đồng Lương và Cự Nhật. Vì vậy, cổ nhân thích Vũ Tham Thìn Tuất hơn vì khả năng bị phá cách dẫn đến khó luận đoán ít xảy ra hơn trường hợp kia. Vũ Khúc không ưa hai sao Hỏa Linh mà chính Tham Lang mới thích sao này. " Tham Hỏa là bạo phát cách". Khi xem tử vi thì bố cục là quan trọng nhất, không thể xem Mệnh Tạo mà không xét đến Tài Bạch và Quan Lộc, tam hợp cũng rất quan trọng. Mệnh Vũ Tham không nên cung Tử Vi Thiên Phủ đồng độ bị Triệt, Tuần hoặc Thiên Không. Độ số giảm rất lớn nếu hai đế tinh Tử Phủ bị phá cách, vì sức mạnh của nhóm sao này là do Tử Vi và Thiên Phủ quyết định.



Không nên nhầm lẫm cách cục Vũ Tham ở Mệnh và ở Thân, ngay cả Vũ Tham cư Thân Mệnh đồng cung ( Giờ Tý và Ngọ ) thì vẫn bị những khuyết điểm khá lớn. Mệnh và Thân là hai khái niệm khác nhau, không phải là trước ba mươi tuổi là Mệnh và sau đó là Thân. Thân chính là thân thể, những hành động mang tính vật chất, là những thứ nhìn thấy được, còn Mệnh không chỉ là tư tưởng, suy nghĩ của con người mà còn là những sự kiện theo tính chất các sao thủ mệnh trong suốt cuộc đời, đây chính là sự phân biệt giữa cá thể này với cá thể khác. Vũ Khúc cư thân là hạ cách, giống Thất Sát vào Thân là hay yểu mạng vì Thất Sát chủ giết, bị giết. Vũ Khúc chủ ngắn ngủi, cơ thể ngắn ngủi thì bị thương tật hoặc những khiếm khuyết. Nếu Tham Lang độc tọa thì chủ rõ hai ham muốn chính " Ham Muốn Vật Chất" và "Ham Muốn Nhục Tình", trong trường hợp này do Tham hội Vũ Khúc là tổ hợp ham muốn vật chất. Nếu mệnh là Tham Lang Thìn Tuất thì sẽ có hai điểm luận " Bộc Phát" và " Kiên Nhẫn", bộc phát không phải là phát tài hay phát công danh mà việc làm của Tham Lang rất ẩu, thường do không được cát tinh củng chiếu, lại gặp Kình Dương hội Linh hoặc Hỏa, tuy có Hỏa Linh nhưng chưa liệt vào cách phú ông vì tính cẩn thận không cao, dễ bị phá sản, không tính toán kỹ, ham muốn làm giàu nhau mà sinh ra hành động đánh cược, dẫn đến thất bại về sau. Còn Tham Lang thuộc tính chất kiên nhẫn khi được cát hóa bởi các trợ tinh và bàng tinh. Khi đó, Tham Lang biết ra tay đúng lúc, đúng thời điểm nên khả năng thành công cao, vì vậy Khoa Quyền là rất cần cho tinh hệ này, thêm Tuần tại bản cung để tăng thêm tính phòng bị, chắc chắn cho kế hoạch.


Mệnh Tham Lang thuộc tính cẩn trọng thì đến các cung hạn khác nếu không có cát tinh cũng không luận là xấu, thường thì đến cung hạn Vũ Khúc thường sự nghiệp mới đến mức độ chín, hạn Tử Phủ tại Dần Thân nhẫn đến chỉ có một hóa trong tam hóa, không bị Không Kiếp và Tuần Triệt cản trước cung thì đây là vận rồng mây hội ngộ, nếu Tham Lang thuộc tính chất bộc phát đến đây lên rất nhanh, như diều gặp gió, chủ đánh đâu thắng đấy, nếu được Song Lộc thì tay đụng vào việc gì là đều biến ra tiền. Tuy vậy, Tham Lang thuộc hành động bộc phát đến hạn Vũ Khúc lại có Kỵ Hình hoặc Tứ Sát thì chắc chắn lâm vào cảnh cá cược cả tính mạng để làm giàu, dễ bị vào tù hoặc xảy ra cảnh tượng suy sụp, nếu được Khoa Quyền Lộc hội thì cũng xét là cách cục bạo phát lớn, kinh doanh lãi lớn, tiền bạc thu về mà không cần bỏ vốn nhiều, bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm phải hợp cách, không bị sát tinh trừ Linh Hỏa xâm phạm. Nếu hạn đến Thiên Cơ ở Sửu Mùi, Thiên Cơ Hóa Lộc hoặc Hóa Quyền thì nên đầu cơ vào lĩnh vực hiểu biết, nếu Thiên Cơ Hóa Kỵ hoặc tam hợp là các sát tinh, kỵ nhất là Không Kiếp thì tuyệt đối không đi những bước cờ lớn để tránh nuối tiếc về cuối đời.

Thứ Ba, 1 tháng 7, 2014

Cơ Lương Thìn Tuất Cách




Cơ Lương Thìn Tuất là sự kết hợp giữa một sao chủ thiện nhưng tính toán, suy nghĩ riêng tư là Thiên Cơ và một sao chủ may mắn, phúc hậu là Thiên Lương. Đây là bố cục hoàn chỉnh với cách cục nổi tiếng Cơ Nguyệt Đồng Lương và không bị gia hội thêm bất cơ sao nào của nhóm Cự Nhật, nếu không bị phá cách là yên tĩnh hưởng phúc hậu, sống thọ, cuộc đời ít lo toan, nhưng việc bạo phát là khó khăn vì không hợp với Hỏa Linh chủ hợp cách là phát phú quý, nhưng có thể gây dựng một cách bình ổn với Kình Dương Đại Hao để phát triển theo chiều hướng thành công. Sao Thiên Lương hóa khí là " Ấm", tức là được che chở một cách vô hình, bên trong có bộ Đồng Âm chủ âm phúc từ ông bà truyền lại. Mệnh có Thiên Lương thì chủ rất thọ, hội sát tinh cũng thuộc hàng trung thọ, nhưng tối kỵ bộ Không Kiếp xâm lai vào mệnh, khi đó phải luận đoán theo chiều Không Kiếp. Thiên Lương đóng ở mười hai cung thì chỉ có Tỵ, Hợi, Sửu, Mùi là kém hơn, nhưng muốn gọi là vô dụng thì phải thêm đủ tứ sát và bại tinh thì mới có thể đánh bại được sao này, càng lâm vào thế nguy hiểm, cái tính che chở của Thiên Lương càng trở nên mạnh mẽ, khiến cho mệnh tạo cảm thấy an ủi, thấy mình may mắn hơn người khác.



Mệnh Thiên Lương chủ hiền, thích bao dung, che chở người khác. Hay thích nghiên cứu tôn giáo, huyền học nên có lẽ như vậy thâm tâm có niềm tin lớn với những sự việc kỳ lạ, và cũng hay gặp ở trong đời. Mệnh đa số có phong thái của người nho học, lại có được tâm địa hiền từ, tuy nhiều lúc tự cao nhưng không khinh thường người khác, hiền nhưng thiếu sự thông minh.Trái với Thiên Lương hay che chở người khác thì Thiên Cơ lại hay tính toán về việc lời lỗ cho bản thân, tuy vậy tính chất chính của sao này là Thiện Tinh, chủ Âm Mộc nên khả năng mềm dẻo lớn. Trong các sao có tài năng thì theo thứ tự là Vũ Tham Cơ Lương. Khi Thiên Lương kết hợp với Thiên Cơ ở Thìn Tuất cũng giống như Vũ Tham ở Tứ Mộ, lực cát hóa mạnh cũng không hề kém, được khen là khéo léo, nếu phải tứ sát thì tuy đường công danh không phát triển mạnh nhưng rất tinh thông kỹ nghệ, chuyên môn vào bậc nhất, lại nếu thêm Lộc Mã giao trì thì phát phú do nắm bắt được cơ hội, trở thành phú gia địch quốc. Thiên Cơ là cơ hội, đi với Thiên Lương là cơ hội may mắn, việc Cơ Lương đồng thủ mệnh giúp cơ hội không bị bỏ lỡ, các cơ hội đều là may mắn, không phải là nguy cơ, một người luôn có những cơ hội may mắn về mọi vấn đề thì việc thành công là dễ dàng hơn người khác, nhưng nếu tại đây có thêm 2 đại sát tinh Không Kiếp thì luận khác.



" Cơ Lương sảo biến đa tài, ngộ Xương Khúc mẫn tiệp". Mệnh Cơ Lương ở đây hoàn toàn không sợ Hóa Kỵ, còn có thừa lực để chuyển Hóa Kỵ thành Kỳ Tài, Kỳ Nhân. Nếu không có Hóa Kỵ và Tứ Sát thì rất nhiều trường hợp mệnh đẹp không có điểm nhấn, thành tựu không lớn do không có nòng cốt sát tinh để đủ độ gian hùng, mao hiểm trong đầu tư dẫn đến hoạch phát, đa số đều là mệnh công chức làm công ăn lương, cuộc sống thanh bình. Nếu không may gặp Hỏa Linh thì cần Hóa Lộc hoặc Lộc Tồn để theo con đường kinh doanh lương thực, thực phẩm. Gặp Bệnh Phù thì đi theo con đường y dược hợp cách, chủ nắm giữ chức vụ cao trong ngành. Gặp Tang Môn đồng cung thì rất hại, dễ thành cách " Cơ Lương Tang Điếu", chủ bị thương tích do ngã từ trên cao và có thể chết, cần có Hóa Khoa để giải nguy. Do Khôi Việt không an ở hai cung Thìn Tuất, nên mệnh không thể có sao này, chỉ có thể ở tam hợp. Các tuổi Ất thì Khôi tại Tý và Việt tại Thân, tuổi Kỷ thì Khôi tại Thân, Việt tại Tý, mệnh an tại Thìn thì được cả bộ Khôi Việt tam hợp. Tuổi Tân được Khôi ở Ngọ và Việt ở Dần, mệnh an ở Tuất thì được cả bộ Khôi Việt.



Cơ Lương với Tứ Hóa thì có tuổi Ất mệnh an tại Thìn là thuộc cách cục tốt, khi đó mệnh đủ Khôi Việt Lộc Quyền Kỵ do tuổi Ất thì tứ hóa an Cơ Lương Vi Nguyệt. Tuổi Ất không thể có Lộc Tồn vì sao này an tại Mão, sẽ bị Kình Dương hoặc Đà La tọa mệnh nếu cư tại Thìn. Không có vòng Thái Tuế ( An theo chi năm ), không có sao Thanh Long chủ diễn thuyết được mọi người kính trọng, tuy vậy được Nhị Hóa cũng là quá tốt cho bộ sao này, nếu được thêm Xương Khúc Tả Hữu thì rất đẹp, các tuổi khác như Bính nếu có Xương Khúc thủ mệnh thì được cả bộ tam hóa, tuổi Đinh luôn được tam hóa vì an tứ hóa Nguyệt Đồng Cơ Cự, các tuổi khác thì nếu may mắn cũng có thể được Nhị Hóa. Tam Hóa là ba sao nói lên hóa khí của chính tinh ấy, là kết quả sau sự biến đổi theo các Thiên Can để tạo ra Khoa Danh, Quyền Hành, Lộc Vị. Những thứ quan trọng nhất đối với con người. Vì vậy, nếu có được một trong các hóa này thì tuy không được nhiều cát tinh hỗ trợ nhưng cũng được hiển danh. " Khoa Quyền nhập mệnh tuy lạc nhãn diệc hữu hiển danh". Với mệnh Cơ Nguyệt Đồng Lương thì không thích hạn đến cung Sát Phá Tham, nhóm SPT mạnh bạo rất dễ khiến cho CNĐL bị động, dẫn đến tình huống chuốc họa vào thân. Mệnh Cơ Lương cũng không nên đến niên hạn hoặc đại vận có Hỏa Linh, những lá số tốt bị phá cách bởi Hỏa Linh rất nhiều, nhiều người xem tử vi không tìm ra được lý do đổ lỗi sai giờ sinh, hoặc là cố tình ép cho một bộ sao nào đó là hoàn toàn đi ngược với mong muốn của tiền nhân.

Chủ Nhật, 29 tháng 6, 2014

Liêm Tướng Tý Ngọ Cách




Đây thuộc tinh hệ Tử Vi và Thiên Phủ đồng độ ở Dần Thân cung, bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm được đầy đủ và Sát Phá Tham ở đối cung hoàn chỉnh. Cung tài bạch là Tử Phủ Dần Thân, cung Quan Lộc là Vũ Khúc độc tọa. Liêm Trinh có ngũ hành Âm Hỏa, thuộc nhóm Bắc Đẩu, đặc tính là theo dõi, giám sát một cách âm thầm cho nhóm Tử Phủ, là sao chủ trong sáng và liêm khiết. Thiên Tướng ngũ hành là Dương Thủy, thuộc nhóm Nam Đẩu, hóa khí là "Ấn", giàu tình cảm, có lòng trắc ẩn, tính công bằng cao, thích giúp đỡ yêu thương người yếu thế. Mệnh tổ hợp 2 sao Liêm Tướng chủ tiếp nối, nếu về địa vị là nối tiếp chức vụ mà người đi trước đã tạo dựng, nếu về vật chất là tiếp nối, thừa kế gia sản. Hạn đến bộ sao này cũng luận như vậy. Tổ hợp Tử Phủ Vũ Tướng Liêm ở đây có bố cục hợp lý, Liêm Trinh chủ bền vững, dài lâu khi hợp cách. Mệnh Liêm Tướng luôn phải nhắc đến chữ " Liêm Khiết", xấu là vô đạo đức, vô liêm sỉ. Liêm Trinh hóa khí là " Tù", rất ngại thêm các sao "Tù Tinh" như Bạch Hổ, Kỵ Hình chủ vi phạm pháp luật mà dẫn đến đáng tiếc lớn trong sự nghiệp và cả cuộc đời.


Mệnh Liêm Tướng Tý Ngọ rất ưa thích được đồng độ với sao Lộc Tồn, hoặc tam hợp cũng chủ bền vững, những thứ bền vững như tiền bạc ( Vũ Phủ ), danh lợi ( Tử Vi ). Nếu Lộc Tồn không bị phá cách thì hơn cả đắc bộ Tam Hóa. Mệnh Liêm Tướng không sợ Tuần Không, ngược lại rất ái mộ chủ trung thành tuyệt đối, nếu có Tuần Kiếp chủ mắc trọng nạn do quan sát, đạo đức mà ra. Thiên Tướng ngộ Tuần có niềm yêu thương rộng lớn, nhưng kỵ gặp Triệt vì Thiên Tướng chủ lộ mặt, nếu thêm Bạch Hổ, Đà La,... có thể đoán là chắc chắn ngồi tù do không giấu được bộ mặt khi hành động. Với Triệt Không thì Liêm Trinh thì không ngại, chủ là lộ ra đạo đức của mệnh tạo. Mệnh Liêm Trinh lực chế hóa hung tinh không lớn, đa phần gặp các sao nhỏ cũng có thể gây ra phá cách lớn, con đường chính trị là đa số với người Liêm Trinh. Nếu có Tả Phụ và Hữu Bật ở bản cung hoặc tam hợp thì chủ được trợ giúp trên con đường chính trị là lớn, ví dụ như được thượng cấp trọng dụng, nâng đỡ khi hoàn thành nhiệm vụ.


Mệnh Liêm Trinh Thiên Tướng bất cát khi bị Hóa Kỵ ở tuổi Bính, chủ luôn có sự nghi ngờ về nội bộ hoặc bên ngoài về vấn đề đạo đức. Liêm Trinh được mệnh danh là Hùng Tinh, có tính cách mạnh mẽ và khả năng diễn đạt cùng với sự quan sát rất tốt. Vì vậy, những vị trí ngoại giao khi làm chính trị đa số đều được sao này thủ mệnh. Nếu Liêm Trinh gặp Hóa Quyền hoặc tự Hóa Lộc sẽ chủ có quyền uy lớn trong công việc và từ công việc là theo dõi, đạo đức kiếm ra tiền bạc. Lãnh đạo là luôn phải theo dõi, là phải có đạo đức lớn, có uy quyền, nên một Liêm Trinh đắc cách là làm quan rất to. Liêm Trinh kỵ cả Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp, gặp một trong bốn sao nếu không có trợ cách chế ngự sát tinh, hóa hung thành quyền thì thường gây thêm những vất vả không đáng có cho cặp sao này. Liêm Trinh Hóa Kỵ tuy là lực hung không lớn nhưng lại không có thêm một hóa nào vì an tứ hóa : Đồng - Cơ - Xương - Liêm, may mắn thì được Văn Xương Hóa Khoa tạo cách Khoa Kỵ giúp quan sát, cấm đoán đúng phương pháp, theo dõi không bị nghi ngờ. Mệnh khi ở Tuổi Bính thì không bị Triệt ở bản cung vì tuổi Bính thì Triệt an ở Thìn Tỵ. Không bị lo bộ sao đế tinh Thiên Phủ và Tử Vi bị phá cách bởi Triệt, nhưng có thể bị Tuần, càng lo ngại khi có Không Vong ở đây thì do Thanh Long cư Tý ở đối cung thì mệnh có Bệnh Phù, không thể cứu giải cho cung Tài Bạch, tài sản sẽ phá tán không tụ.


Với tuổi Giáp, mệnh Liêm Trinh được lợi rất lớn khi Hóa Lộc, Vũ Khúc cung Quan Lộc Hóa Khoa và Phá Quân xung Hóa Quyền. Lộc Tồn tuổi Giáp cư Dần, nếu Mệnh cư ở Ngọ cung thì đây chính xác là cách cục " Hùng Tú Triều Viên", sao vừa có tính hùng mạnh, vừa đẹp nên gọi là tú. Mệnh khi đó thuộc thượng cách, tổ hợp rất vững chắc, bộ Tử Phủ cư Dần được Lộc Tồn gia thêm Hóa Lộc ở mệnh được Song Lộc rất quý, thuộc cách cục giàu có bền vững, nếu hạn đẹp có thể giàu phú gia địch quốc, của cải không phải do hoạch phát mà do hoạch định, đến hạn tốt phát triển rất lớn, tính bao trùm rộng. Vũ Khúc cư Quan Lộc Hóa Khoa chủ người có tài năng lớn, các cơ hội ngắn đến nắm bắt vững chắc, mệnh khi đó không bị dính Kình Đà. Chỉ cần như vậy là đủ lá số ở mức độ thượng cách. Nếu gia thêm các trợ tinh thì lực trợ giúp lớn theo cấp số nhân. Có thêm Tả Hữu ắt là người có quyền cao chức trọng trong bộ máy nhà nước, tiền bạc kiếm được vô số, vàng bạc chất đầy nhà. Tuy nhiên, do bộ Âm Dương trên lá số không ở vị trí tốt, nếu không có Tuần Triệt án ngữ để phục hồi sức sáng thì thường phát danh lộc trung niên, khoảng ngoài ngũ tuần. Nếu bị Hỏa Linh cũng không quá đáng ngại, kỵ nhất là Không Kiếp tọa thủ bản cung hoặc tam hợp. Khi đó, các cách đã xác lập sẽ bị phá chuyển hướng về phía Không Kiếp. Tên đầy đủ của hai sao này là Thiên Không Không Vong và Địa Kiếp Chi Thần, là bộ đôi công phá rất mạnh các chính tinh, các cách cục đẹp dẫn đến những bại cách trầm trọng, tuy vậy nếu không có đồng đảng thì việc phá bại chỉ xảy ra ở hạn xấu, những hạn tốt vẫn có thể lên cao. Mệnh tuổi Giáp không bị Triệt do Triệt an tại Thân Dậu, vẫn có thể bị Tuần.



Nếu ở tuổi Giáp, mệnh lập ở Tý thì không được Lộc Tồn ở tam hợp mệnh, mà ở bên ngoài tức phía bộ Sát Phá Tham không thích hợp với sao này, nhất là cách Phá Quân ngộ Lộc Tồn. Khôi Việt ở Sửu Mùi nên Giáp mệnh không có bộ sao này, tuy vậy có thể được Thái Tuế trong tổ hợp Tuế Hổ Phù và nếu đắc thì được luôn bộ tứ linh. Mệnh lập ở Tý có Thanh Long tọa thủ ngay bản cung, bộ Âm Dương sáng nên danh vọng sẽ sớm đến, tuy vậy lực không mạnh bằng ở Ngọ. Thanh Long cư Tý tuổi Giáp là rất hay, chỉ xếp sau hai tuổi Đinh Kỷ với Thanh Long cư Thìn, Long cư long vị. Mệnh có Khoa, Lộc tam hợp và xung chiếu là Phá Quân Hóa Quyền, không phải tam hóa nhưng sức mạnh cũng hiển hiện, nếu không có thêm Không Kiếp thì có thể luận là lá số rất tốt, hạn đến Tử Phủ Vũ Tướng Liêm là lúc tranh đua với đời. Nhất là khi Hạn đến gặp Tử Phủ Dần Thân, nhưng nếu có Tuần án ngữ tại ngay ở Dần Thân thì rất dễ phải chuộc lấy họa do gánh vác trách nhiệm, địa vị lãnh đạo sẽ bị lung lay. Nếu chỉ gặp mình Thiên Không ( Địa Không theo nam phái ) mà không có Địa Kiếp tạo thành sao đôi thì Thanh Long có thể khiến Thiên Không trở nên phản vi cách.


Đồng Âm Tý Ngọ Cách





Cách cục Thiên Đồng và Thái Âm đồng cung cư Tý Ngọ được gọi là chung là Đồng Âm Tý Ngọ Cách. Nếu chỉ xét về bố cục mà không xét về vị trí đắc lợi của bộ Âm Dương trên cả lá số tử vi thì cách này có bên trong là Cơ Nguyệt Đồng Lương với Cơ Lương Thìn Tuất cư cung Quan Lộc và cung Tài Bạch vô chính diệu. Đây là bố cục đầy đủ nhóm văn đoàn nên được gọi là đắc ý. Tất cả các cách nếu có bộ CNĐL đầy đủ ở tam phương thì đều gọi là hoàn chỉnh. Trái với bộ Tử Phủ vô lực chê là hung khi gặp Triệt Tuần thì bộ sao hiền hòa Cơ Nguyệt Đồng Lương gặp Tuần Triệt tuy không phải là cát nhưng nếu có hung tinh tam hợp hoặc khi Âm Dương lạc hãm thì sức chắn của Triệt giúp Thái Âm trở nên sáng và hung tinh không hội tụ tại mệnh ( Không có Hóa Kỵ ở bản cung ), còn khi Tuần đi với trợ tinh thì làm tăng sức mạnh cho trợ tinh và chính tinh lạc hãm. Tất nhiên là Âm Dương sáng kỵ cả Tuần Triệt, nếu gặp cả Tuần - Triệt - Thiên Không chủ hung hiểm tai họa rất lớn, có thể mất mạng nếu hội thêm hung kỵ tinh. Mệnh Đồng Âm Tý Ngọ do Thái Âm và Thiên Đồng ở vị trí đồng cung nên kỵ Kình Đà Hỏa Linh, nếu ở tam hợp hoặc được hóa giải bởi các tổ hợp cho 4 sao này thì trở nên cát.


Thái Âm là chủ tinh của chòm Trung Thiên Đẩu, ngũ hành thuộc Thủy, tượng là Mặt Trăng, Phụ Nữ, Âm Tính, là khí hóa từ Thái Dương chiếu sáng cho ban đêm u tối, tính tích trữ cao nên tượng là Phú, chủ cung Điền Trạch. Chính vì Thái Âm là nguồn lực của Thái Dương về đêm nên bộ Âm Dương không đẹp ở Tứ Mộ ( Thìn Tuất Sửu Mùi ) và khi Thái Dương ở các 8 cung còn lại thì Thái Âm cũng ở vị trí lạc hãm, do tính đối xứng của hai sao này qua nửa mặt phẳng ngang của Địa Bàn. Thái Âm chỉ Hóa Kỵ khi ở tuổi Ất, còn lập luận ở tuổi Canh thì Thiên Đồng Hóa Kỵ. Trong Tử Vi, các sao có thể Hóa Kỵ đều mang sẵn khuyết điểm cực đoan riêng, khi Hóa Kỵ thì khuyết điểm ấy trở nên nổi bật. Một số chính tinh  không Hóa Kỵ như : Tử Vi, Thiên Phủ, Thất Sát, Phá Quân, Thiên Tướng, Thiên Lương. Hóa Kỵ là biểu hiện thuộc về ẩn tàng, thường là nhược điểm của Chính Tinh với các Thiên Can, hóa khí chủ ám, nghi ngờ, ghen ghét. Tính âm của Hóa Kỵ rất lớn, nhưng chỉ xấu khi hội họp thành cách cục. Vì vậy, cách cục Đồng Âm Tý Ngọ sẽ bị Hóa Kỵ ở bản cung khi ở tuổi Ất và tuổi Canh.

Bàn về Thái Âm hoặc Thiên Đồng Hóa Kỵ ở tuổi Ất và tuổi Canh :

- Với tuổi Ất : Tứ hóa được an  Cơ - Lương - Vi - Nguyệt. Khi đó bộ Đồng Âm Tý Ngọ sẽ có Thiên Cơ, Thiên Lương hóa Lộc Quyền ở cung Quan Lộc và mệnh cung Thái Âm Hóa Kỵ. Đây là kết cấu khá đẹp nếu không bị gặp thêm Thiên Hình thành cách cục Hình Kỵ. Được cách Quyền Kỵ chủ cấm đoán hợp lý, có quyền cấm đoán người khác. Tuổi Ất có Lộc Tồn tại Mão nên không được hưởng cách Song Lộc, tuy vậy có thể được hưởng bộ Khôi Việt vì Thiên Khôi an ở Tý, Thiên Việt an ở Thân.

 + Đồng Âm Cư Tý : Trở nên đắc cách với Lộc Quyền Khôi Việt Kỵ, không được Thái Tuế của nhóm Tuế Hổ Phù và tất nhiên là không có Tứ Linh vì thiếu Thái Tuế. Tuy vậy, mệnh tạo sẽ gặp bộ Kình Dương hoặc Đà La ở cung Thìn do Lộc Tồn ở Mão, do không có Phượng Các nên sẽ không hoàn toàn tốt, chủ gặp bệnh tật, khó khăn tuy không quá lớn. rất không nên gặp thêm Hỏa Linh, tuy bị phá cách về mặt tình cảm, danh vọng nhưng vì có cách Lương Hỏa ( Linh ) và Hóa Lộc chủ thích hợp làm ngành chế biến thực phẩm. Với tuổi Hợi Mão Mùi có Đào Hoa cư Tý, được cách Tam Minh này chủ là người dung mạo xinh đẹp, tài sắc vẹn toàn, bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương hiền hòa, may mắn được Đào Hoa nhân lên niềm vui, Hồng Loan mừng.


+ Đồng Âm Cư Ngọ : Mệnh Đồng Âm cư Ngọ là nơi lạc hãm của Thái Âm, xét về tính chất thành công và mức độ thành công của tổ hợp tinh hệ này là không bằng khi cư Tý. Tuy vậy, quan trọng là việc có bị phá cách dẫn đến biểu hiện cực đoan của bố cục toàn diện. Mệnh có tam phương tứ chính hội Lộc Quyền Khôi Kỵ, không có mặt Thái Tuế và không có Tứ Linh. Mệnh gặp Kình Dương hoặc Đà La ở cung Dần thuộc tam hội, không có Phượng Các trong bộ Tứ Linh để Kình Đà được đắc ý. Mệnh cục hưởng cách Khoa Quyền Kỵ chủ kỳ tài, cần tránh xa Thiên Hình, không nên có Hỏa Linh. Đào Hoa cư Ngọ cho tuổi Tị Dậu Sửu, bộ Tam Minh ( Đào Hồng Hỉ ) rất thích hợp cho nhóm sao này, chủ cuộc sống êm đềm vui vẻ tháng ngày, mang lại những may mắn về công danh, địa vị, tiền bạc cho Đồng Lương

- Với tuổi Canh : Tứ Hóa an theo : Nhật - Vũ - Âm - Đồng. Khi đó bộ Đồng Âm Tý Ngọ sẽ có Khoa Kỵ ở tại bản cung. An Khôi Việt ở Mùi và Sửu nên không được bộ sao này. Sẽ có cơ hội được cả bộ Tứ Linh do đắc Tuế Hổ Phù, khi đó Kình Đà sẽ được lợi lớn ở đây, nếu có Kình Dương Đại Hao chủ rất tốt, dù không có Quyền Lộc. Không nên gặp thêm Hỏa Linh chủ phá cách, không có Hóa Lộc nên tai họa không được hóa giải nhiều bằng công việc liên quan đến lửa nhưng hóa ra tiền bạc.


+ Đồng Âm Cư Tý : Mệnh cung có bộ Khoa Kỵ hội với Kình hoặc Đà, tam hợp mệnh nếu có Phượng Các trở nên đẹp hơn rất nhiều, nếu có Kình Đại chủ phát triển sự nghiệp được nhiều người ngưỡng mộ, từ quy mô nhỏ đến lớn. Nếu có Đà La Phượng Các chủ càng bành trướng càng lên. Tất nhiên là do thiếu Quyền Lộc nên độ phát không quá lớn, rất dễ dẫn đến những thất bại do có Hóa Kỵ. Không nên gặp thêm Thiên Hình thành bộ Kỵ Hình chủ vi phạm pháp luật. Các tuổi Hợi Mão Mùi có Đào Hoa cư Tý đa phàm dung mạo nữ mệnh thì đẹp, mỹ ái, nếu nam mệnh thì có âm tính cao, cần thêm Quyền tinh để tăng vẻ khôi ngô, tuấn tú.

+ Đồng Âm Cư Ngọ : Mệnh cung có bộ Khoa Kỵ, hội với Kình Dương hoặc Đà La ở cung Quan Lộc, tam hợp mệnh có Phượng Các chủ phát triển theo hướng thành công, không nên gặp thêm Hỏa Linh chủ lạnh lẽo trong tình cảm, thất bại trong sự nghiệp. Mệnh không nên gặp Thiên Hình tạo thành bộ Kỵ Hình. Các tuổi Tỵ Dậu Sửu có Đào Hoa ( Tam Minh ) đẹp cho cách cục này.

Tinh hệ Thiên Đồng và Thái Âm cư Tý Ngọ cần gặp :

- Xương Khúc : Rất đắc lực cho bộ Âm Dương.

- Khoa Quyền Lộc : Đánh giá sự thành công khi chính tinh hóa khí.

- Khôi Việt : Chủ tạo thành cách Lương Việt, Đồng Việt chủ phúc hậu, phát về may mắn và phúc lộc.

- Thái Tuế: Được bộ Tứ Linh ( Phượng Các ) hợp với Đồng Âm. " Đồng Âm Kình Dương, nhị phùng Phượng Các nhất thế uy danh".

- Lộc Tồn, Tả Hữu : Tạo thành cách cục " Thái Âm Tả Hữu Lộc Tồn phú đồ ông".

- Thai Tọa : Đắc lực cho bộ Âm Dương.

Tinh hệ Thiên Đồng và Thái Âm kỵ gặp :

- Hỏa Linh : Chủ phá cách cho cả bộ Đồng Lương, Cơ Lương và Thái Âm.


- Kình Đà : Bất lợi lớn cho Thái Âm.

- Tang Môn : Dễ thành cách cục Cơ Lương Tang Điếu chủ bị ngã từ trên cao.

- Không Kiếp : Đại sát tinh kỵ cho hầu hết các chính tinh, rất độc khi tọa thủ ngay mệnh.

Thứ Bảy, 28 tháng 6, 2014

Thái Dương Tý Ngọ Cách





Sao Thái Dương và Thái Âm là bộ sao duy nhất biểu hiện sự miếu hãm ở hai vị trí đối nhau trên cung địa bàn, vì theo lý lẽ dương thịnh thì âm tàn và ngược lại. Vì vậy khi Thái Dương cư Ngọ là nơi nhập miếu và cư Tý là nơi hãm địa. Xét ở đây là về cách cục đều theo cách Dương Lương, Bên trong là Thái Dương và bên ngoài là Thiên Lương, tam hợp có Cự Môn ở cung Quan Lộc. Việc đắc hãm của Thái Dương chỉ có ý nghĩa về việc thành công sớm hay muộn. Thái Dương cư Tý nếu được các phụ tinh đúng cách hỗ trợ có thể trở nên thành công lớn, nhưng muộn màng, kém cư Ngọ không quá nhiều. Nếu Thái Dương cư Tý được bộ Xương Khúc thì hơn hẳn Thái Dương cư Ngọ không có.


Cách cục Thái Dương cư Ngọ có tên riêng là " Nhật Lệ Trung Thiên", tức chủ tinh giữa trời. Còn Thái Dương cư Tý gọi là " Nhật Trầm Thủy Để", là cách cục không đắc ý, nhưng quan trọng ở cả 2 trường hợp là sự đắc cách. Thái Dương và Thái Âm cũng là một trong những chủ tinh, khác với đế tinh, bộ Âm Dương ưa phò tá hơn là tự mình lãnh đạo. Câu phú "THÁI DƯƠNG CƯ TÝ BÍNH ĐINH PHÚ QUÝ TRUNG LƯƠNG". Tuổi Đinh thì khi Thái Dương cư Tý được Lộc Tồn xung chiếu hình thành cách "Dương Lương Xương Lộc hội, lô truyền đệ nhất danh", tuy vậy vẫn chưa phải là hoàn toàn tốt vì Cự Môn kỵ Lộc Tồn về phương diện bất cẩn ngôn ngữ, Tuổi Bính được Triệt ở tam hợp và nếu sinh ở chi Thân, Tý, Thìn được cả vòng Thái Tuế. Nói chung đây chưa phải là những phụ tinh hỗ trợ tốt nhất cho Âm Dương lạc hãm.



Xét về tinh hệ Thái Dương cư ở Tý cung, nếu ở Ngọ cung thì tương tự nhưng đẹp hơn vì Âm Dương đều sáng, thành công vang dội hơn ở trường hợp Tý cung, đây là những bàng tinh thích hợp cho Thái Dương.


1/ Tam Minh Đào Hồng Hỉ : Đào Hoa chỉ cư ở Tý Ngọ Mão Dậu và tam hợp luôn có Hồng Loan, xung chiếu Hồng Loan có Thiên Hỉ.

- Thái Dương Cư Ngọ : Đào Hoa cư ở Ngọ cho tuổi Tỵ Dậu Sửu, tức là được Đào Hoa và Hồng Loan tam hợp ở cung Dần, thiếu Thiên Hỷ vì khi đó ở đối cung với Hồng Loan, nhìn ở cung tam hợp là Dần thì được cả bộ Tam Minh và Thái Dương, đây là một cách đẹp cho người Thái Dương cư Ngọ, khi có tam minh thì sẽ tận những những ngày vui vẻ, nhưng ở đây đã có sẵn sao Kiếp Sát, rất kỵ gặp thêm Địa Kiếp tạo thành cách Lưỡng Kiếp độc, lại thêm cách Đào Hồng Không Kiếp dễ tạo tai họa dẫn đến yểu vong, vì vậy nên tránh sinh tháng chẵn  ( Lịch Âm ) sẽ có Không Kiếp ở cường cung, nhất là tháng Tư và tháng Mười.

- Thái Dương cư Tý : Đào Hoa cư ở Tý cho tuổi Hợi Mão Mùi, khi đó được Đào Hoa thì Hồng Loan ở cung Thân, Thiên Hỉ ở cung Dần, nhìn ở phía Hồng Loan sẽ thấy bộ Tam Minh với Thái Dương. Tại đây cũng có sao Kiếp Sát kỵ thêm Địa Kiếp như trên, cách Đào Hồng Không Kiếp tạo tai họa lớn, tránh Không Kiếp xuất hiện ở Tam Hợp Mệnh, ngay cả ở Xung Chiếu cũng vẫn không nên.


2/ Văn Xương, Văn Khúc : Đắc 2 sao này ở tam hợp mệnh thì không lo có bộ Không Kiếp ở đây, chúng đã bị đẩy về nhược cung vì an Xương Khúc ngược với Không Kiếp theo tháng sinh. "Âm Dương dữ xương khúc nhi đắc lực", bộ Nhật Nguyệt rất hỷ hai sao này chủ người ngày tháng luôn có tâm tư tĩnh lặng, vì vậy có câu phú " Xương Khúc là đấng thanh nhàn", thiên về biết cảm thụ nghệ thuật, có năng khiếu về văn học, ca hát. Nếu được thêm cả Tam Minh thì chắc chắn luận là đắc cách, tuy nhiên cần một số sao hóa ( Khoa Quyền Lộc ) để thành công. Mệnh sinh tháng Chín nhất định có Xương Khúc thủ mệnh, trong các trường hợp này rất kỵ sao Hóa Kỵ sẽ làm tối đi Nhật Nguyệt, trở thành vô lực.

3/ Khôi Việt : Chủ tiếng nói và âm thanh ( Nhật Nguyệt ) của quý nhân, được trọng vọng, có địa vị cao, là người nổi trội nhất. Kỵ có thêm bộ Linh Hình thành cách Việt Linh Hình làm mất giá trị của bộ sao Khôi Việt và Thái Dương cũng bị họa với Thiên Hình và Linh Tinh. " Nhật Nguyệt lạc hãm tối hỉ ngoai triều Khôi Việt, Xương Khúc". Với Thái Dương cư Tý tuổi Ất có Khôi tại Tý, Việt tại Thân và tuổi Kỷ có Khôi tại Thân, Việt tại Tý, khi đó được cả bộ Khôi Việt. Với Thái Dương cư Ngọ thì tuổi Tân được bộ Khôi Việt, có Khôi an tại Ngọ, Việt an tại Dần. Các tuổi khác thì không có bộ Khôi Việt, may mắn thì được cách giáp bộ sao này ở cung Thìn Tuất.

4/ Thái Tuế : Nếu đắc được vòng Thái Tuế thì dễ có cả bộ Tứ Linh chủ được ngưỡng mộ, trọng vọng. Các sao gặp được Thái Tuế đều chủ tốt, làm tăng lên độ số cho cung tam hợp và chính cung, Thái Tuế và Cự Môn chủ nghề luật sư, với Thái Dương thì công khai trên ngôn luận, cần tránh xa hung kỵ hình nếu không dễ bị thù ghét mà dẫn đến ám hại.

5/ Tang Môn, Thiên Hư, Điếu Khách : Gặp bộ Tang Hư Khách có lợi cho Thái Dương, bộ sao Âm Dương nếu gặp Thiên Hư chủ ánh sáng chiếu trong hư không, nói theo cách hình tượng là như vậy, gặp Thiên Hư không xấu, đối cung là tam hợp Phúc Phối Di sẽ có bộ Tuế Hổ Phù, cả 6 cường cung đều có lợi.

6/ Diêu Đà Kỵ : Tam Ám rất hại cho bộ Âm Dương, nếu không may gặp phải thì cuộc đời là một màu đen tối tăm, tùy vào sở dụng đắc cách nhưng đa phần nếu phát chỉ ở trong bóng tối, quyền lực ngầm nhưng nếu không hợp cách thì rất dễ mang lại nhưng bất hạnh, bệnh tật cho cơ thể, sự xa cách với mọi người. Nếu cư Ngọ thì chủ không xấu bằng cư Tý. Gặp Hóa Kỵ, tuổi Giáp luôn có Thái Dương hóa kỵ, tuổi Kỷ và Tân có Khúc Xương, hai tuổi Kỷ Tân không nên có Xương Khúc tại tam hợp hoặc bản cung mệnh.

7/ Hỏa Tinh, Linh Tinh : Bộ Linh Hỏa làm phá cách cục Cơ Nguyệt Đồng Lương, ở đây là cách cục Dương Lương với nội Dương ngoại Lương, nhưng Thái Dương vẫn bị ảnh hưởng mạnh về bộ sao này, dẫn đến phá cách nhẹ nhưng rất ngại thêm Kình Dương hình thành cách " Cự Hỏa Kình Dương tất tự ải",  nếu có Hóa Lộc cứu giải thành cách cục tốt, chủ làm ngành nghề kinh doanh lương thực, thực phẩm.


Với Thái Dương Tý Ngọ thì Thiên Lương ở đối cung, Thiên Lương chủ hiền hòa có thể làm giảm lực công khai, khắc kỵ của Thái Dương, vì ở đối cung nên lực chiếu không đủ, nhưng chỉ kém cách cục Dương Lương đồng cung ở Mão Dậu có tên riêng là " Nhật Xuất Lôi Môn", "Mặt trời chiếu rọi trước cổng sấm", cách cục này có tính chất hiền hòa của Thiên Lương tạo thành cách Dương Lương chủ người đàn ông công khai may mắn.