Thứ Hai, 31 tháng 12, 2012

Thiên Lương thủ mệnh (thân)


      Thiên Lương là “ấm tinh”. Trong Đẩu Số, chữ “ấm” có nhiều ý nghĩa, như: “Tiêu tai giải ách”, “kéo dài tuổi thọ”, “là trợ lực của cấp trên hay cha mẹ”, “có sinh hoạt tinh thần phong phú về tôn giáo, tín ngưỡng”. Tất cả, đều có ý vị “che chở”. Cần lưu ý, những lực “che chở” này đều thuộc về “tinh thần”, mà không thuộc về “vật chất”. Từ đó có thể biết đặc tính của Thiên Lương.
      Tính chất “tiêu tai giải ách” của Thiên Lương, bao hàm ý vị có nạn tai trước, sau rồi mới có hóa giải. Cho nên, ắt sẽ phải trải qua nguy khó rồi mới được bình an; bị bệnh hoạn rồi mới khỏi bệnh; không có chỗ nhờ cậy rồi mới được người ta phù trợ; cảm thấy tinh thần “trống rỗng” (ý vị cuộc đời có kích thích khá lớn) sau rồi mới ký thác, ẩn nấp nơi tôn giáo, những thứ đại loại như vậy không thể nào liệt kê ra hết được.

      Do sao Thiên Lương thiên nặng về “tinh thần”, mà không thiên nặng về “vật chất”, cho nên Thiên Lương ưa Hóa Khoa mà không ưa Hóa Lộc. Khi Thiên lương hóa thành sao Lộc, chủ về mang lại những rắc rối thị phi, thường thường bị người oán hận. Thiên Lương cũng rất ghét Hóa Quyền, lúc hóa thành sao Quyền, chủ về người lộng quyền, gặp thêm Hỏa tinh Linh tinh thì càng đúng.
      Do ý nghĩa “che chở”, mà có thể mở rộng thành tính chất “hình pháp, kỷ luật”. Bởi vì, “hình pháp” có thể giữ cho mọi người được thiện lương. Vì vậy, Thiên Lương có thể biểu trưng cho vị quan thanh liêm “vì dân trừ hại”, ví như Bao Chửng trong truyền thuyết dân gian. Lúc luận đoán cần phải lưu ý luận điểm này. Do hàm nghĩa mở rộng này, Thiên Lương còn mang thêm chức vị “giám sát”. Phần nhiều là người theo ngành kiểm toán viên, quan đốc, thanh tra, hay chuyên viên nghiên cứu thị trường, chuyên viên kế hoạch tài vụ… thì phần nhiều cung Mệnh hay cung Sự nghiệp hay gặp sao Thiên lương. Hàm nghĩa “giám sát” của Thiên Lương cũng có thể diễn hóa thành ý vị “lui về hậu trường”.
      Do “che chở” có thể mở rộng “phục vụ người khác”, cho nên tinh bàn của những người là bác sỹ, thầy thuốc, luật sư, cũng thường thường có quan hệ mật thiết với Thiên Lương. Có thể dựa vào tiêu chuẩn này để định Thiên lương là nhân tài chuyên nghiệp, hay là chuyên viên.
      Thiên lương có Thái dương đồng độ hoặc vây chiếu, gặp Thiên hình, thích hợp làm nhân viên ngành tư pháp; nếu gặp Kình dương thì không phải là bác sỹ ngoại khoa (bao gồm cả khoa phụ sản), còn thêm Thiên Nguyệt, phần nhiều là người trong giới y học.
      Hệ “Thiên cơ Thiên lương” đồng độ, chủ về vạch “kế sách quản lý”, gặp Thiên mã thì làm những nghề nghiệp có tính lưu động, như hàng hải, hàng không, điện tử… (một ví dụ đáng để tham khảo, Vương Đình Chi kể, ông từng đoán mệnh cho một người làm thuê, chuyên sao chép băng hình. Nghề nghiệp này nếu không nói ra thì rất khó đoán, nhưng nói ra rồi, thì biết được nghề nghiệp có tính phục vụ và tính lưu động. So với tinh bàn thì không có chỗ nào là không hợp lý, do đó có thể thấy nghề nghiệp thời hiện đại, thường rất khó luận đoán một cách chi tiết cụ thể).
      Thiên Lương có Văn xương, Văn khúc, Tấu thư đồng độ, có thể xem là nhân tài trong ngành pháp luật, sở trường văn thư án lệ, cũng có lúc chỉ là thư ký văn thư của công ty lớn, hoặc là người trong giới văn hóa, xuất bản.

      Thiên lương có Bạch hổ đồng độ, có thể xem là điềm tượng chủ về “hình pháp kỷ luật”, cũng có thể là bác sỹ phẫu thuật ngoại khoa.
      Cổ nhân nói “Thiên lương và Thiên mã ở hãm địa, cuộc đời nhất định trôi dạt” (Thiên lương Thiên mã hãm, phiêu đãng vô nghi). Đây là nói Thiên lương ở Tị và ở Hợi, chủ về rời xa quê hương, tâm chí phiêu bồng. Ở thời hiện đại người ta thường rời bỏ quê hương để phát triển, vì vậy không nên luận đoán là “trôi dạt”, chỉ ở trường hợp gặp sao Không hay sao Hao đồng cung với Hỏa tinh Linh tinh, mới có thể luận đoán là không giữ một nghề, rời bỏ quê hương mà không có nền tảng. Còn khi gặp các loại sao “khoa văn” là người cuồng ngạo phóng túng.
      Cổ nhân nói “Thiên lương ở hãm địa gặp Kình dương Đà la, là trái thuần phong mỹ tục” (Thiên lương hãm địa kiến Dương Đà, thương phong bại tục). Đây là nói nữ mệnh có Thiên lương ở Tị hoặc ở Hợi. Thời đại này nay, có thể luận đoán cuộc đời mệnh tạo gặp nhiều đau khổ về tình cảm. Rất ngại Thiên lương đồng độ với Hỏa tinh Linh tinh mà Thiên đồng ở cung đối diện Hóa Kị, hoặc hội Thiên cơ Hóa Kị mà Kình dương Đà la giáp Thiên lương, càng gặp nhiều tình huống rắc rối khó xử và đau khổ về tình cảm.
      Thiên lương đến nhập cung Tị hoặc cung Hợi, gặp các sao Sát Hình Không Hao, chủ về cuộc đời nhiều tai họa, hoặc nhiều hung hiểm, thường xảy ra ứng nghiệm ở niên hạn vận trình đến cung có “Thiên cơ Cự môn”, hay “Thái âm Thái dương”. Gặp niên hạn Hóa Kị cũng thường ngầm chứa nguy cơ họa hoạn. Ngoài ra các cung hạn Tham lang, Thiên đồng tọa thủ là những niên hạn có tính chất then chốt.
      Thiên lương ở Tý hoặc ở Ngọ, không gặp Văn xương Văn khúc là đã thông minh, nhưng thông minh quá lộ, nhìn sự việc quá rõ, nên cơ duyên với người thường không tốt, nhất là phương hại đến hôn nhân. Thiên lương ở Tý tốt hơn ở Ngọ.
      Thiên lương ở Tý hoặc ở Ngọ, không cần gặp những sao đào hoa, cũng đã chủ về loại người “dễ thay đổi tình cảm”. Ở xã hội thời cổ đại, đàn ông nạp nhiều thiếp, nên cũng chủ về đau khổ mà ít người biết trong quan hệ hôn nhân.
      Thiên lương ở Tý hoặc ở Ngọ, nếu gặp các sao Lộc, rất kị là người thông minh nhưng lạnh lùng nghiêm khắc. Cần phải có thái độ đối đãi với người chân thành nhân hậu, thì mới có thể xoay chuyển được vận mệnh của chính mình, nếu không, phần nhiều vào đại vận thứ ba, sẽ xảy ra trắc trở gây ảnh hưởng rất sâu xa và lâu dài. Nhưng, thường thường mệnh tạo lại không tự biết nguy cơ là do chính mình, nên lúc vận trình đến hậu vận chủ về cảnh ngộ gập gềnh, bất đắc chí, thì lại sinh ra oán trời hận người, mà không biết rằng “họa căn” đã tiềm phục từ lâu.

      Thiên lương ở Ngọ thì không cát tường, là do hội với Thái âm và Thái dương đều ở cung hãm nhược. Nếu cung Tài bạch là hệ “Thiên cơ Thái âm”, gặp các sao Sát Hao và Thiên mã, chủ về mệnh cách có lối suy nghĩ kỳ lạ, đặc biệt, không hợp quần, ít qua lại giao lưu với người, và cũng thuộc loại người khó gần gũi. Những tính chất này gây ảnh hưởng đến con đường sự nghiệp, khiến cho thu nhập không ổn định. Ví dụ như đột nhiên bị cách chức, hoặc bỗng nhiên khách hàng thường xuyên lại bỏ đi sang chọn lựa chỗ khác, hoặc thường phải thay đổi cương vị công tác…
      Thiên lương ở Tý hoặc ở Ngọ cần phải có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt hội hợp, lại không nên gặp các sao Sát Kị Hình Hao, thì mới có thể bàn tới phú và quý, hơn nữa, phú cũng vẫn phải nhờ quý mà có.
      Đối với Thiên lương ở Tý hoặc ở Ngọ, các cung hạn “Thiên cơ Thái âm”, Cự môn, Thái dương, Thiên đồng, thảy là những niên hạn có tính then chốt.
      Thiên lương ở Sửu hoặc ở Mùi, vì Thiên cơ vây chiếu, nên tinh hệ này chủ về “kế hoạch mưu lược”, còn chủ về tính cơ động, không ổn định. Khi gặp các sao Sát Không Hao, cổ nhân cho rằng đây là mệnh cách xuất gia làm tăng nhân, đạo sỹ. Thời đại ngày nay, phần nhiều chủ về loại người có nhân sinh quan kỳ lạ đặc biệt (khác với lỗi suy nghĩ đặc biệt của Thiên lương ở Ngọ, ở đây cần phải phân biệt, một bên là nhân sinh quan còn một bên là tác phong xử sự). Cho nên nếu có các sao Văn xương, Văn khúc, Thiên tài bay đến, chủ về mệnh cách thuộc loại thông minh tuyệt đỉnh, nhưng lại không yên thân ở một nghề nào, khiến về già không có thành tựu.
      Thiên lương ở Mùi hội Thái dương ở Hợi, động lực thúc đẩy không thể bằng Thiên lương ở Sửu, hễ Thiên lương hội Thái dương ở cung hãm nhược, đều chủ về chuốc lấy oán trách. Nhưng nếu gặp sao Hình và các sao Văn xương, Văn khúc, Long trì, Phượng các, Thanh long, Tấu thư, Quan phù, mà không gặp Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, Địa không, Địa kiếp, thì có thể thích hợp với công tác pháp luật, hoặc liên quan đến tính chất “hình pháp kỷ luật”.
      Thiên lương ở Sửu, nếu cung Phu thê là Cự môn được Cát hóa (ưa nhất là Hóa Lộc), chủ về có thể kết hôn với người ngoại quốc.
      Thiên lương ở Sửu hoặc ở Mùi, ưa Thiên Vu đồng độ với Thái dương, chủ về được bậc trưởng bối đề bạt, nâng đỡ trong sự nghiệp.
      Thiên lương ở Sửu hoặc ở Mùi, rất ngại đến đại vận Tham lang Hóa Kị, theo bí truyền của phái Trung Châu, đây là hạn vì sắc mà gây họa, hoặc là một vận gặp nhiều tranh chấp. Cần xem hội các sao nào mà định cảnh ngộ.
      Thiên lương ở Sửu hoặc ở Mùi, không gặp các sao “khoa văn", cũng đã có khí chất nghệ thuật, nhưng thường có biểu hiện cuồng ngạo, phóng túng.
      Đối với Thiên lương ở Sửu hoặc ở Mùi, các cung hạn Tham lang, Cự môn, Thái dương, Thiên đồng, là những lưu niên hay đại vận có tính then chốt.   
 

Chủ Nhật, 30 tháng 12, 2012

Tử vi tọa thủ Mệnh (Thân)



      Sao Tử vi độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ, nếu là trường hợp “bách quan triều củng”, thì rất ưa đến cung mệnh đại hạn và cung mệnh lưu niên được Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa. 

      Nếu Tử vi Hóa Quyền hoặc Tử vi Hóa Khoa ở nguyên cục mà không có “bách quan triều củng”, thì ưa đến cung mệnh đại hạn hoặc cung mệnh lưu niên có các sao Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật hội hợp.

      Nếu nguyên cục vốn là cách “tại dã cô quân”, đến niên hạn dù được Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, thì cát lợi cũng nhỏ, e rằng chỉ là nhất thời đắc ý.

      Nếu nguyên cục vốn là cách “vô đạo cô quân”, lại đến niên hạn có các sao Sát Kị tụ tập, thường chủ về tai họa, phần nhiều là tự chuốc lấy họa.

      Phàm là Tử vi độc tọa thủ mệnh, đều ưa đến cung hạn Thiên phủ hay Thiên tướng tọa thủ, ưa nhất là cung hạn Tử vi độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ.

      Tử vi độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ ưa có Lộc tồn đồng độ. Có điều, khi Tử vi “tại dã cô quân” thì phần nhiều chủ về ích kỷ, rất hay nghi kỵ. Đến niên hạn có các sao Sát Kị Hình đồng thời hội chiếu, phần nhiều chủ về hay oán trách, thị phi, thường còn gây nên tự họa kiện tụng.

      Phàm là Tử vi tọa mệnh đều không ưa đi đến cung hạn Thiên Cơ hay Thiên Lương tọa thủ, có Cự môn đồng độ, gặp Hóa Kị thì càng thêm tệ. Tử vi độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ, gặp cung hạn Thiên Cơ chủ về phá tán thất bại; gặp cung hạn Thiên Lương chủ về tai ách tật bệnh, nhưng tai ách chỉ gặp một phen mất hồn hú vía; gặp cung hạn Cự Môn chủ về gặp rắc rối khó sử về tình cảm tâm oán tình cô, có cát hóa thì  giải quyết được, gặp các sao Sát Hình thì ứng nghiệm.

      Tử vi và Phá quân tọa mệnh, tối kỵ gặp cách “tại dã cô quân”, đến cung hạn Thiên Cơ, Thiên Lương hay Cự Môn, thường là vận trình then chốt của cuộc đời. Nếu cung hạn gặp các sao Sát Kị Hình hội chiếu, chủ về sẽ xảy ra sự cố, thường ảnh hưởng đến cả cuộc đời. Cũng không nên đến cung hạn Thái Dương Hóa Kị, thường dẫn đến thị phi oán trách. Hệ “Tử vi Phá quân” tọa mệnh, có Vũ Khúc Hóa Kị ở nguyên cục, đến đại hạn “Vũ khúc Thất sát” đồng độ, lại đến lưu niên Thái Dương Hóa Kị hoặc Cự Môn Hóa Kị, chủ về vì tiền mà chuốc họa. Hệ “Tử vi Phá quân” tọa mệnh không ưa đến cung hạn Thiên Phủ là “kho trống”, “kho lộ”, chủ về phá tài. Nếu Thiên Phủ có sao Lộc, thì chỉ chủ về vì tiền mà mất nghĩa. 

      Hệ “Tử vi Phá quân” đến niên hạn “Thiên Đồng Thiên Lương” tọa thủ, gặp Thiên cơ Hóa Kị kèm theo sát tinh đến xung, chủ về xử sự phải hết sức thận trọng, cơ tâm mưu mẹo càng nhiều thì phá tán, thất bại càng lớn.

      Hệ “Tử vi Thiên phủ” tọa mệnh, rất ưa gặp sao Lộc, có Lộc Tồn đồng độ, Liêm Trinh Hóa Lộc đến hội, chủ về cự phú. Lấy trường hợp Hóa Lộc, Lộc tồn của niên hạn làm ứng nghiệm. Ví dụ Tử Phủ cư Dần, người sinh năm Giáp, đến hạn Đinh Mão chủ về kiếm được tiền, hoặc gặp cơ hội làm đại lý mà phát đạt.

      Hệ “Tử vi Thiên phủ” ưa đến cung hạn Vũ Khúc độc tọa, gặp lưu Lộc, hoặc Tham Lang Hóa Lộc, hoặc Liêm Trinh Hóa Lộc, chủ về kiếm được tiền. Nếu lại có các sao Phụ diệu cát và Tá diệu cát, không có các sao Sát Kị Hình hội chiếu, nguyên cục là “Tử vi Thiên phủ” lại có kết cấu cát lợi, chủ về tay trắng làm nên mà thành cự phú.

      Hệ “Tử vi Thiên phủ” không có sao Lộc, đến niên hạn gặp sao Lộc cũng cát lợi.

      Hệ “Tử vi Thiên phủ” có sao Lộc, đến niên hạn Thái Dương độc tọa ở Tị, gặp các sao Phụ diệu cái và Tá diệu cát, chủ về địa vị thăng tiến, trường hợp Thái Dương ở Hợi là tốt kế đó.

      Đối với người “Tử vi Thiên phủ” tọa mệnh, mà đại vận tính thep chiều nghịch, thì đại hạn Thái Dương giữ cung, hoặc Vũ Khúc giữ cung, là then chốt của mệnh vận cả đời. Đại vận đi thuận, thì đại hạn Tham Lang (Vũ Khúc ở cung đối diện), hoặc đại hạn Cự Môn (Thái Dương ở cung đối diện), là then chốt của mệnh vận cả đời. Các đại hạn này cát hay hung, có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời.

      Hệ “Tử Vi Tham Lang” tọa mệnh, ưa gặp Hỏa tinh, Linh tinh, cũng ưa gặp Tham Lang Hóa Lộc, chủ về phát lên một cách đột ngột, mà còn kéo dài. Nếu Tham Lang Hóa Kị, thì cuộc đời gặp nhiều vất vả khổ lụy, mà còn không được như ý. Nếu Sát tinh lại nặng, thường thường lúc sắp thành công thì đột nhiên thất bại.

      Nữ mệnh gặp hệ “Tử Vi Tham Lang” không ưa đến niên hạn Thái Dương tọa cung Phu của niên vận, chủ về gặp kẻ bất lương. Nam mệnh “Tử vi Tham Lang” không ưa đến niên vận cung Thê là Thiên Đồng (hoặc Cự Môn) tọa thủ, chủ về rơi vào lưới tình, khó mà thoát ra.

      Hệ “Tử Vi Tham Lang” tọa mệnh đến cung hạn “Vũ Khúc Phá Quân” mà Vũ Khúc Hóa Kị, lại gặp lưu niên Văn Xương Hóa Kị, hay Văn Khúc Hóa Kị, chủ về xảy ra phá tán thất bại.

      Hệ “Tử Vi Tham Lang” tọa mệnh tại Mão, đến đại vận hoặc lưu niên ở Ngọ, nếu Thiên Lương Hóa Lộc, chủ về tham tiền hiếu sắc, đều gây ra phiền phức, gặp thêm Sát tinh thì có hung họa, nhưng cuối cùng hóa giải được.

     Hệ “Tử Vi Tham Lang” tọa mệnh, cung hạn “Thái Dương Cự Môn” tương hội và cung hạn “Thiên Cơ Thái Âm” đồng cung, là then chốt của mệnh vận cả đời.

      Hệ “Tử Vi Thiên Tướng” tọa mệnh, gặp lưu niên Sát Phá Tham, đều chủ về có biến động thay đổi, biến động thay đổi là cát hay hung, phải xem xét tính chất của các tổ hợp sao để định.

      Hệ “Tử Vi Thiên Tướng” tọa mệnh, đến đại vận “Tử vi Thiên Tương” thủ cung Tật Ách, phải đề phòng bệnh tim mạch.

      Hệ “Tử Vi Thiên Tướng” tọa mệnh, đến đại vận “Tử Vi Thiên Tướng” thủ cung Phu Thê, phải đề phòng hôn nhân đổ vỡ.

      Hệ “Tử Vi Thiên Tướng” tọa mệnh, đến đại vận “Vũ Khúc Thiên Phủ” nếu Vũ Khúc Hóa Kị, hoặc Thiên Phủ là “kho lộ”, “kho trống”, chủ về gặp tình huống tráo trở, điên đảo, mà gây nên phá tán thất bại (như thất nghiệp, ngừng kinh doanh, vỡ nợ, sập tiệm, …).

      Hệ “Tử Vi Thiên Tướng” tọa mệnh, lại đến lưu niên “Tử Vi Thiên Tướng” trong các tình huống thông thường, không nên hợp tác với người khác, năm kế tiếp nếu có hợp tác thì cũng không thể lâu dài.

      Hệ “Tử Vi Thiên Tướng” tọa mệnh, không ưa gặp cung hạn Tham Lang Hóa Kị. Gặp nó ở bất cứ cung viên nào, cũng chủ về ứng nghiệm xấu ở cung đó. Ví dụ như đến đại vận hoặc lưu niên Tham Lang Hóa Kị thủ cung Phụ mẫu, chủ về người cấp trên trọng dụng mệnh tạo lại bị hoán chuyển công tác, đến lưu niên gặp Tham Lang Hóa Kị thủ cung Phu thê, chủ về xảy ra sự thay đổi trong tình cảm.

      Đối với người “Tử Vi Thiên Tướng” tọa mệnh, mà đại vận tính theo chiều nghịch, thì các đại vận Tham Lang, Vũ Khúc, Thiên Phủ thủ cung hạn là những vận hạn then chốt của mệnh vận cả đời. Đối với người “Tử Vi Thiên Tướng” tọa mệnh, mà đại vận tính theo chiều thuận, thì các đại vận Thất Sát, Liêm Trinh thủ cung hạn là những vận hạn có tính then chốt của mệnh vận cả đời.

      Hệ “Tử Vi Thất Sát” tọa mệnh, mà Tử Vi Hóa Quyền, thì “tài khí” trong đời không đủ để giúp cho sự nghiệp.

      Hệ “Tử Vi Thất Sát” tọa mệnh, chủ về nặng tinh thần trách nhiệm. Người sinh năm Quý, cung Sự nghiệp là hệ “Liêm Trinh Phá Quân” mà Phá Quân Hóa Lộc, lại chủ về gánh vác trách nhiệm quá mức, việc gì cũng đích thân làm.

      Hệ “Tử Vi Thất Sát” tọa mệnh, cung độ “Thái Dương Cự Môn” có tính then chốt, Thái Dương ở Dần thì tốt hơn ở Thân, nhưng vẫn phải xem các sao cát hung ra sao mà định.

      Nữ mệnh “Tử vi Thất Sát”, hôn nhân phần nhiều không như ý. Nếu cung Mệnh và cung Phu gặp Sát tinh, nếu không khéo khắc chế, thì tình cảm rất dễ thay đổi.

     Hệ “Tử Vi Thất Sát” tọa mệnh, đại hạn Thiên Tướng, đại hạn đến hệ “Vũ Khúc Tham lang” thủ cung hạn, là có tính then chốt của mệnh vận cả đời.